SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Đánh giá các chương trình và chính sách hỗ trợ DNNVV và khởi nghiệp: Một số vấn đề lý luận

[01/06/2021 10:29]

Với mục đích nâng cao nhận thức của các cơ quan hoạch định chính sách về những lợi ích có được từ việc phát triển văn hóa đánh giá, OECD đã xây dựng khung đánh giá các chương trình và chính sách hỗ trợ DNNVV và khởi nghiệp ở cấp quốc gia và địa phương. Đây không phải là cuốn cẩm nang hướng dẫn đưa ra những bước cần thực hiện để hoàn thành việc đánh giá. Thay vào đó, trọng tâm của khung đánh giá là thảo luận về các vấn đề khó khăn nảy sinh trong việc đánh giá chính sách và các chương trình hỗ trợ DNNVV và khởi nghiệp, đặc biệt cung cấp các ví dụ về phương pháp tiếp cận đã được sử dụng để đánh giá tác động định lượng.

ĐỊNH NGHĨA ĐÁNH GIÁ

Theo OECD, “Đánh giá là một quá trình nhằm xác định một cách có hệ thống và khách quan nhất có thể mức độ phù hợp, hiệu quả của một hoạt động xét theo mục tiêu cuả nó, bao gồm cả phân tích việc thực hiện và quản lý hành chính hoạt động đó”.

Một số từ hoặc cụm từ trong định nghĩa này cần được nhấn mạnh. Từ khóa đầu tiên là "quá trình". Điều này nhấn mạnh rằng đánh giá không phải là một hoạt động chỉ diễn ra "một lần", được thực hiện sau khi một chương trình đã được hoàn thành. Thay vào đó, nó là một yếu tố không thể thiếu của quá trình hoàn thiện chính sách hoặc cung cấp dịch vụ.

Cụm từ chính thứ hai trong định nghĩa đánh giá là “một cách có hệ thống và khách quan nhất có  thể”. Do việc đánh giá theo truyền thống diễn ra “ở cuối dòng” (Hộp 1), có khả năng sẽ đem lại những quyền lợi độc quyền cho các nhóm lợi ích khi một chương trình đã được triển khai trong một số năm. Những nhóm lợi ích này bao gồm những người thụ hưởng trực tiếp của chương trình, chẳng hạn như các doanh nghiệp nhận vốn, ngoài ra còn bao gồm những người chịu trách nhiệm khởi xướng và quản lý các chương trình này. Nếu theo cách này, tất cả mọi thứ sẽ được giữ nguyên và chương trình vẫn tiếp tục được triển khai hoặc mở rông. Tuy nhiên, nhiệm vụ của người đánh giá là đánh giá “một cách có hệ thống và khách quan” giá trị của chương trình. Trong nhiệm vụ này, người đánh giá có thể xung đột với những người thực thi chương trình. Chỉ thông qua việc sử dụng các kỹ thuật khách quan, người đánh giá mới có thể chứng minh sự độc lập của họ đối với các chương trình đó.

Đánh giá cuối dòng và đánh giá tích hợp

Đánh giá cuối dòng (at the end of the line) là việc đánh giá chỉ được thực hiện sau khi các mục tiêu và chỉ tiêu đã được đặt ra và chương trình đã hoạt động một thời gian. Khi việc đánh giá được thực hiện "ở cuối dòng", nó chỉ có thể phục vụ như một chức năng đánh giá lịch sử. Đối lập hình thức đánh giá này là “Đánh giá tích hợp” (Integral Evaluation). Đây cũng là hình thức đánh giá được sử dụng nhiều hơn. Ở đây, việc đánh giá được tích hợp vào quy trình chính sách. Vì vậy, khi chính sách đang được xây dựng, các nhà hoạch định chính sách đã xem xét đến việc chính sách sẽ được đánh giá như thế nào. Điều này có bốn lợi thế. Thứ nhất, nó đảm bảo rằng các mục tiêu và chỉ tiêu của chính sách được cụ thể hóa rõ ràng. Thứ hai, nó đảm bảo rằng việc thu thập dữ liệu cần thiết có thể được bắt đầu ngay lập tức và được “tích hợp sẵn” vào chương trình. Thứ ba, nó đảm bảo rằng có một khoản kinh phí dành cho việc đánh giá. Thứ tư, nó đảm bảo rằng tiến trình của chương trình được theo dõi để có thể thực hiện các sửa đổi và cải tiến dựa trên thực chứng.

Cụm từ quan trọng thứ ba trong định nghĩa này  là “mức độ phù hợp, hiệu quả và tác dụng của một hoạt động xét theo mục tiêu của nó”. Giả định rằng chính sách có các mục tiêu rõ ràng và những mục tiêu này được trình bày bằng các thuật ngữ đủ rõ ràng để người đánh giá sử dụng chúng tuy nhiên trong thực tế, điều này không phải lúc nào cũng đúng. Vai trò quan trọng của người đánh giá là lần đầu tiên chính thức hóa các mục tiêu của chương trình, thường là sau khi chương trình đó đã hoạt động được nhiều năm.

Định nghĩa này nhấn mạnh rằng việc đánh giá có một vai trò không thể thiếu trong quá trình chính sách. Việc đánh giá không nên tực hiện “ở cuối dòng”. Thay vào đó, nó phải là yếu tố quan trọng được đưa ngay vào từ khâu xây dựng chính sách. Khi chính sách có hiệu lực, tất cả các tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm thực thi cần nhận tiến hành đánh giá và khi việc đánh giá đã được thực hiện, và đôi khi khi đang diễn ra, nó nên được sử dụng làm cơ sở để đối thoại với các nhà hoạch định chính sách, với mục tiêu đưa ra chính sách tốt hơn. Sau đó, kết quả đánh giá có thể trở thành đầu vào cho cuộc tranh luận về các cách thức thích hợp để chính phủ có thể hố trợ tốt nhất cho các DNNVV và khởi nghiệp.

VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ

Những lợi ích của việc đánh giá bao gồm:

Để đánh giá tác động của các chính sách và chương trình với các mục tiêu ban đầu

Lý do chính để thực hiện đánh giá là để xác định xem chính sách có góp phần khắc phục hoặc cải thiện vấn đề mà chính sách đặt ra để giải quyết hay không, đặc biệt khhi. Đặc biệt trong trường hợp giải quyết những thất bại của thị trường làm giảm hiệu quả kinh tế, chẳng hạn như không đủ tài chính, kỹ năng, tư vấn và công nghệ, nhưng cũng có thể bao hàm mong muốn cải thiện sự công bằng giữa các nhóm người hoặc giữa các địa điểm, chẳng hạn bằng cách hỗ trợ khởi nghiệp cho thanh niên thất nghiệp hoặc hỗ trợ khởi nghiệp cho các địa phương nghèo. Việc đánh giá tác động này được hỗ trợ bởi các kết quả có thể đo lường được ngay từ khi bắt đầu thiết kế chính sách/chương trình và thu thập các dữ liệu liên quan trong suốt vòng đời của nó.

Để đưa ra quyết định sáng suốt về việc phân bổ ngân sách

Các chính phủ quản lý các nguồn tài chính cho các chính sách và chương trình. Mỗi chính sách và chương trình đều có cơ sở và lý do riêng. Việc đánh giá hỗ trợ các nhà quản lý đánh giá hiệu quả tương đối của các chính sách và chương trình này và xác định nơi cần tập trung nguồn lực để thu được lợi ích lớn nhất với các khoản ngân sách đã định. Bằng chứng đánh giá có thể giúp xác định nơi chính phủ có thể tạo ra sự khác biệt lớn nhất đối với các mục tiêu và chỉ tiêu của mình.

Để người nộp thuế và cộng đồng doanh nghiệp biết được liệu chương trình có phải là cách sử dụng công quỹ hiệu quả về chi phí hay không

Ngân sách dành cho các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp khởi nghiệp khác nhau giữa các quốc gia. Tuy nhiên, số tiền thường này thường rất lớn. Các quốc gia thành viên EU hằng năm chi khoảng sáu tỷ Euro từ thuế để tài trợ cho các DNNVV. Tuy nhiên, thậm chí đây có thể là một đánh giá thấp hơn đáng kể so với thực tế. Một quốc gia thành viên EU - Vương quốc Anh - trong một đánh giá toàn diện về nguồn tài trợ từ thuế cho các DNNVV, đã báo cáo rằng 2,5 tỷ GBP từ tiền thuế đã được chi để hỗ trợ trực tiếp cho các DNNVV ở Anh. Ví dụ thứ 3 là một chương trình ở Hoa Kỳ - Chương trình Nghiên cứu đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp nhỏ hằng năm nhận được 1,1 tỷ USD trong giai đoạn 1997-1999.

Những ví dụ này cho thấy, đối với hầu hết các nước phát triển, nguồn tài trợ công cho các DNNVV là rất lớn, ngay cả khi rất khó để định lượng một  cách tổng thể và có thể vẫn còn tương đối khiêm tốn về hỗ trợ của chính phủ cho các doanh nghiệp lớn. Với những khoản tiền đáng kể này, người nộp thuế yên tâm rằng nguồn tiền đóng thuế của họ đang được chi tiêu một cách thích hợp. Người nộp thuế cũng biết được rằng các chương trình của chính phủ đang chi tiêu ngân quỹ phù hợp với các mục tiêu đã nêu. Vai trò đầu tiên thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên nhà nước. Vai trò thứ hai là đánh giá xem liệu các quỹ công có đạt được các mục tiêu mà các chính trị gia đề ra hay không. Đây là chức năng của người đánh giá.

Để kích thích cuộc thảo luận dân chủ

Trong các nền dân chủ, cử tri thường đặt câu hỏi về các quyết định của chính phủ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc thảo luận đó, các tổ chức có thể tiếp cận bằng chứng về tác động của các  chính sách. Về mặt này, các chính sách hỗ trợ DNNVV và khởi nghiệp cũng giống như các lĩnh vực chi tiêu khác của chính phủ, do đó, kết quả đánh giá cung cấp thông tin và nâng cao chất lượng cho các cuộc thảo luận công khai.

Cuộc thảo luận này chỉ diễn ra khi kết quả của các đánh giá được công khai. Điều này không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đánh giá mà còn cả việc công bố những phát hiện của họ.

Để đạt được sự cải tiến liên tục trong việc thiết kế và quản lý các chương trình

Các nhà hoạch định chính sách và những người quản lý các chương trình hỗ trợ DNNVV cần cải tiến liên tục và tất nhiên cần phải đảm bảo sự thích ứng với các điều kiện thay đổi. Đánh giá là một công cụ quan trọng để tìm hiểu về mức độ thực hiện của các chính sách và chương trình, những vấn đề nào có thể đang nảy sinh, những yếu tố nào hoạt động tốt và kém hơn và những gì có thể được thực hiện tốt hơn trong tương lai. Ví dụ, các nhà hoạch định chính sách có thể tìm cách đưa ra các chính sách cho các nhóm khác nhau, chẳng hạn bằng cách hướng nhiều nguồn lực hơn vào các doanh nghiệp được thành lập bởi những người thiệt thòi về mặt xã hội hoặc những người có khả năng đem lại việc làm cho người khác hoặc những người sở hữu các công nghệ cao. Họ có thể tìm cách đưa ra các chính sách bằng cách sử dụng các hình thức tổ chức khác nhau, để kích thích việc áp dụng các chính sách hoặc cung cấp chúng theo cách thức hiệu quả hơn về chi phí. Tất cả những thay đổi trọng tâm này có thể xuất hiện khi thực hiện các đánh giá thích hợp. Ngoài ra, các chính sách hiện có có thể được chuyển giao hiệu quả hơn nhờ kinh nghiệm đánh giá tích lũy được.

Những lý do phản đối việc đánh giá và phản hồi

Bên cạnh những khía cạnh tích cực của việc đánh giá, một trong những rào cản đối với việc phổ biến văn hoá đánh giá là sự phản đối từ các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách và những người thực thi. Sau đây, là một số lý do phổ biến nhất có thể cản trở việc đánh giá, nhưng xét trên khía cạnh cân bằng, chúng không phải là yếu tố chắc chắn để không thực hiện đánh giá và do đó bỏ lỡ các lợi ích được nêu ở trên.

Đánh giá là tốn kém và quan liêu

Đánh giá không phải là không tốn kém. Chi phí bao gồm việc thanh toán cho các chuyên gia tư vấn/ người đánh giá, việc thu thập dữ liệu và thời gian của những người thực hiện chương trình cung cấp thông tin cho việc đánh giá. Ví dụ, văn phòng thống kê Vương quốc Anh yêu cầu phải tính phí cho những người thực thi chương trình về khoảng thời gian họ cung cấp ý kiến và thông tin về chương trình (tức là chi phí cho thời gian của người trả lời phải được tính rõ ràng vào chi phí đánh giá). Dữ liệu cũng có thể phải được thu thập từ cả khách hàng của chương trình và “nhóm đối chứng” những người không phải là khách hàng.

Tuy nhiên, các nguồn lực được cam kết để đánh giá thường rất khiêm tốn so với tổng quy mô của chương trình. Ví dụ, để đánh giá các hành động và biện pháp thúc đẩy phụ nữ khởi nghiệp cần một khoảng ngân sách thích hợp từ 2-5% cho các mục đích đánh giá. Điều này có thể phù hợp với các chương trình nhỏ nhưng đối với các chương trình ở các quốc gia lớn hơn, con số từ 0,5-1% chi tiêu hằng năm sẽ cao hơn bình thường.

Tuy nhiên, với những lợi ích mà việc đánh giá đem lại để sử dụng các nguồn lực và để thiết kế các chương trình mới hiệu quả hơn, đây thực sự là những chi phí rất khiêm tốn.

Đánh giá không phải lúc nào cũng dẫn đến cải thiện chính sách

Việc đánh giá các chương trình có thể không dẫn đến thay đổi chính sách vì một số lý do. Có thể là do những người chịu trách nhiệm quản lý chương trình phản đối việc đánh giá hoặc cũng có thể xảy ra khi người đánh giá không thu hút được người quản lý chương trình hoặc khi họ không hiểu chi tiết của chương trình. Bản thân người đánh giá có thể không diễn đạt được những phát hiện của mình bằng một ngôn ngữ dễ hiểu đối với các nhà hoạch định chính sách và những người chịu trách nhiệm về việc cung cấp chính sách.

Mặc dù có những trường hợp đánh giá không dẫn đến việc cải thiện, nhưng đây không phải là lý do đầy đủ cho việc miễn cưỡng thực hiện bất kỳ hình thức đánh giá nào. Để giảm thiểu các vấn đề tiềm ẩn, các nhà quản lý chương trình phải được thuyết phục rằng chất lượng của việc cung cấp các thông tin về chương trình có thể được nâng cao thông qua đánh giá và các nhà tư vấn phải “liên hệ” với các nhà quản lý chương trình để thu hút họ khi có thể.

Nhưng cuối cùng việc đánh giá diễn ra vì lợi ích của người nộp thuế, chứ không phải cho [các] nhà cung cấp của chương trình. Những chương trình được chứng minh là không hiệu quả rõ ràng phải bị đóng cửa và điều này phải được các nhà quản lý chương trình công nhận.

Trên thực tế, nếu việc đánh giá dẫn đến thay đổi, thì phải cân bằng giữa một mặt, đảm bảo tính độc lập của người đánh giá, mặt khác, phải thu hút sự hỗ trợ của những người liên quan đến việc thực hiện chương trình.

Có nguy cơ chuyển sự chú ý khỏi việc thực hiện chương trình

Đó là trường hợp có sự khác biệt về văn hóa giữa người đánh giá và người thực thi chương trình. Những người trước đây thường là những cá nhân phân tích, thường có nền tảng học vấn, trong khi những người sau tự coi mình là những cá nhân thực tế, tập trung vào việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng của họ. Bởi vì họ rất gần gũi với khách hàng của họ, họ coi họ là người đánh giá tốt nhất về hiệu quả của chương trình. Họ gặp khó khăn khi nhìn thấy giá trị mà một nhà tư vấn “tách rời” có thể cung cấp để cải tiến chương trình. Đối với lý do này, những người cung cấp chương trình thường không hài lòng về thời gian hoàn thành các biểu mẫu và thu thập dữ liệu, tuy nhiên, điều này rất quan trọng đối với sự thành công của một cuộc đánh giá. Người quản lý chương trình và người phân phối một cách dễ hiểu cũng có thể cảm thấy bị đe dọa bởi một cuộc đánh giá, đặc biệt là khi họ biết rằng họ không hiểu đầy đủ các kỹ thuật mà người đánh giá sử dụng, nhưng lại sợ người đánh giá không hiểu đầy đủ về chương trình.

Tuy nhiên, để đánh giá thành công, những khác biệt văn hóa này phải được giải quyết. Cách hiệu  quả nhất để đạt được điều này, như đã xác định ở trên, là chứng minh rằng lợi ích của cả người đánh giá và người quản lý/người cung cấp chương trình có thể gắn kết chặt chẽ hơn bởi cả hai bên tập trung vào các lĩnh vực cải tiến chương trình. Điều này có thể đạt được hiệu quả nhất bằng cách thu hút những người cung cấp chính sách thông qua đảm bảo các vấn đề quan tâm được giải quyết trong quá trình đánh giá và bằng cách tạo cơ hội thích hợp để bình luận và đưa ra cách giải thích của họ về những phát hiện tạm thời.

Tất nhiên, đây là một sự đơn giản hóa để ngụ ý rằng các nhà quản lý chương trình không thích đánh giá nhất là những người sợ phản hồi tiêu cực. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách cấp cao cần lưu ý rằng việc đánh giá, mặc dù đó là lợi ích của người nộp thuế, có thể gây ra sự thù địch đáng kể từ những người cung cấp chương trình. Sau này phải được tham gia nhưng không phải là tiếng nói cuối cùng.

Đánh giá chỉ dành cho các nước tiên tiến

Đó là trường hợp đánh giá chương trình thường được thực hiện ở các nước tiên tiến hơn là ở các nền kinh tế đang phát triển. Điều này một phần có thể là do việc tìm kiếm đủ số lượng cá nhân với kỹ năng phân tích cần thiết để thực hiện các đánh giá chất lượng tốt ở các nền kinh tế đang phát triển là  khó khăn hơn. Do đó, các tổ chức tài trợ lớn, chẳng hạn như Ngân hàng Thế giới, có thể đóng một vai trò nào đó trong việc tự mình thực hiện đánh giá và đào tạo những người khác để thực hiện các nhiệm vụ này.

Tuy nhiên, không chỉ các quốc gia phát triển nhất mới thực hiện đánh giá. Khi xem xét viện trợ của nhà nước cho các DNNVV, EIM [2004] đã khảo sát các Quốc gia Thành viên EU, Khu vực Kinh tế Châu Âu và các nước ứng cử viên. Tổng cộng có 29 quốc gia đã được xác định. Chỉ có Ireland, Hà Lan và Slovakia thực hiện đánh giá viện trợ nhà nước trên tất cả các chương trình, ngụ ý rằng đánh giá không chỉ đơn giản là đặc trưng của các quốc gia giàu có hơn. EIM đặc biệt lưu ý rằng Đạo luật Viện trợ của Nhà nước bắt buộc Chính phủ Slovakia phải đánh giá tất cả các khoản viện trợ của nhà nước bằng cách sử dụng phân tích thống kê về những người nhận viện trợ và các nhóm kiểm soát. Họ cũng lưu ý rằng các phân tích được thực hiện ở cấp độ vĩ mô và vi mô.

Mexico gần đây cũng đã cam kết thực hiện đánh giá DNVVN. Nó tin rằng điều này sẽ “cải thiện hệ thống hỗ trợ” và xác định các lĩnh vực cơ hội, do đó mang lại sự chắc chắn cho người dân về việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Những ví dụ này cho thấy rằng không nhất thiết các nước phát triển kinh tế nhất phải cam kết thực hiện đánh giá.

Không có tiền lệ thực hiện đánh giá

Ở các quốc gia không có truyền thống đánh giá, có thể khó thực hiện quá trình chuyển đổi này. Tuy nhiên, rõ ràng là các cơ quan bầu cử ở nhiều quốc gia đang trở nên phức tạp hơn, một phần là do khả năng tiếp cận với các phương tiện truyền thông và Internet. Trong tương lai, những quốc gia không thực hiện đánh giá trong tương lai có khả bị hỏi tại sao không tiến hành đánh giá chính sách trong khi các nơi khác tiến hành đánh giá. Suy luận, có lẽ không hợp lý, là các đánh giá không được thực hiện bởi có một cái gì đó không muốn công khai. Nó không đủ  để ngụ ý rằng các chính sách đang được chuyển giao một cách hiệu quả vì không có thông tin phản hồi.

Bản tin “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”, Số 16.2021 (ntbtra)
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ