SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Hiện trạng nhiễm ký sinh trùng ở cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn ương giống

[28/09/2021 17:43]

Nghiên cứu do nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng, Trần Thị Tuyết Hoa, Đặng Thụy Mai Thy, Trần Thị Mỹ Duyên và Nguyễn Thanh Phương của Khoa Thủy sản, Trường Đai học Cần Thơ thực hiện nhằm xác định hiện trang nhiễm ký sinh trùng ở ba giai đoan ương (cá bột, cá hương và cá giống) cá tra (Pangasianodon hypophthalmus).

Ảnh: Internet

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước về nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản. Trong đó, cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là một trong những đối tượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Cá tra là đối tượng nuôi chủ lực, có giá trị xuất khẩu không ngừng gia tăng, hàng năm cung cấp lượng ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế nước nhà. Để đảm bảo cung cấp nguồn nguyên liệu xuất khẩu ổn định thì đòi hỏi phải thâm canh hóa nghề nuôi cá tra nhằm nâng cao sản lượng. Bên cạnh đó, vấn đề đảm bảo nguồn giống khỏe và sạch bệnh là mấu chốt thành công. Do nhu cầu sản phẩm cho xuất khẩu tăng nên nhiều nơi đã nuôi thâm canh cá tra và bệnh là một trở ngại đáng kể cho nghề nuôi, trong đó bệnh do ký sinh trùng là khá phổ biến. Ký sinh trùng thường lây nhiễm cho cá qua môi trường nước, khi nhiễm với số lượng lớn sẽ làm cá sinh trưởng chậm, thậm chí gây chết hàng loạt, đặc biệt ở giai đoạn cá giống đồng thời mở đường cho các tác nhân vi khuẩn, virus, nấm xâm nhập gây chết cá. Bệnh do ký sinh trùng thường gây thiệt hại cho cá tra từ giai đoạn ương giống đến nuôi thương phẩm. Bệnh do ký sinh trùng khá phổ biến ở giai đoạn cá nhỏ, chủ yếu là nhóm ngoại ký sinh (Woo, 2006; Noga, 2010). Trong đó, nhóm trùng mặt trời Trichodina, thích bào tử trùng Myxozoa… được ghi nhận lây nhiễm và gây bệnh phổ biến, gây thiệt hại rất lớn cho cá nuôi nước ngọt trong giai đoạn cá giống (Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007). Nhiều nghiên cứu ký sinh trùng trên cá tra nuôi thâm canh cho thấy cá thường bị các nhóm ngoại ký sinh trùng đơn bào và đa bào có chu kỳ phát triển trực tiếp không qua ký chủ trung gian như trùng bánh xe (Trichodina), thích bào tử (Myxobolus, Henenguya), trùng miệng lệch (Chilodonella), sán lá đơn chủ (Dactylogyrus, Gyrodactylus), trùng mỏ neo (Lernaea). Các loài ký sinh trùng này gây thành dịch bệnh làm thiệt hại nghiêm trọng cho nghề nuôi cá (Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007). Ở giai đoạn nuôi thịt, cá tra cũng nhiễm một số nhóm nội ký sinh trùng có vòng đời phát triển cần ký chủ trung gian như sán lá, sán dây, giun tròn ký sinh ở dạ dày, ruột, mật của cá. Mức độ nhiễm nội ký sinh trùng trên cá tra khác nhau theo loài và vị trí ký sinh (Bùi Quang Tề, 2001). Các tỉnh ĐBSCL có nghề nuôi cá tra phát triển mạnh, vì thế, đã có nhiều nghiên cứu khảo sát thành phần ký sinh trùng nhiễm trên cá tra nuôi (Thu et al., 2007; Nguyễn Thị Thu Hằng và ctv., 2008; Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoành Oanh, 2012; Đặng Thúy Bình và ctv., 2014). Nhóm Myxozoa gồm Myxobolus và Henneguya ký sinh trên hơn 30 loài cá nước ngọt Việt Nam như cá tra, cá chép, cá trôi, cá tai tượng, cá rô đồng (Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007; Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh, 2012). Trong khi nghề nuôi cá tra vẫn đang phát triển, thì việc tìm hiểu các giống loài ký sinh trùng gây bệnh ký sinh trên cá tra ở giai đoạn ương giống là rất cần thiết, góp phần đưa ra những biện pháp phòng và điều trị bệnh do ký sinh trùng đạt hiệu quả hơn.

Mẫu cá bột, hương, giống được thu ngẫu nhiên tại các ao ương cá ở Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang vào mùa khô (từ 20/3/2018 đến 13/6/2018) và mùa mưa (từ 28/8/2018 đến 22/01/2019). Tổng cộng thu 9 ao ở mùa khô, 11 ao ở mùa mưa. Nhịp thu mẫu 2 tuần/lần/ao từ giai đọan cá bột đến giống là 6-7 lần/ao. Số lượng mẫu thu từ 10-15 con/ao. Cá được vận chuyển sống về phòng thí nghiệm bằng thùng nhựa hoặc thùng xốp có chứa nước và sục khí. Mẫu được kiểm tra ký sinh trùng trong ngày.

Tổng số 857 mẫu cá (302 mẫu cá bột, 218 mẫu cá hương và 337 mẫu cá giống) được thu từ 20 ao ương (9 ao thu vào mùa mưa và 11 ao thu vào mùa khô). Thành phân loài và tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng được xác định theo các giai đoan ương cá khác nhau. Kết quả cho thấy 9 giống ký sinh trùng được phát hiện trên cá tra giống bao gồm Cryptobia, Trichodina, Balantidium, Apiosoma, Epistylis, Myxobolus, Henneguya, Dactylogyrus và Gyrodactylus. Ngoài ra, bào nang của một số giống ký sinh trùng cũng được xác định là Myxozoans, ấu trùng metacercariae, ấu trùng giun tròn và copepod. Nhiều giống ký sinh trùng có tỷ lệ nhiễm ở mùa khô (cá bột: 56,6% -73,3%, cá hương: 50% -100%, cá giống: 73% -85,7%) cao hơn so với mùa mưa (cá bột: 15% -57,3%, cá hương: 40% -100%, cá giống: 25% -90,3%). Đặc biệt, các giống Trichodina, Apiosoma, Epistylis, Myxobolus, Henneguya và bào nang Myxozoa ký sinh phổ biến trên da và mang cá ở cả mùa khô và mùa mưa. Hiện trang về tỷ lệ nhiễm và thành phân loài ký sinh trùng phát hiện trong nghiên cứu này phản ánh thơi điểm cụ thể của giai đoan ương cân áp dụng các biện pháp can thiệp nhằm giảm tác động của mâm bệnh ký sinh trùng.

ntdien

Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Tập 56, Số 5B (2020): 167-175
Xem thêm
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ