Đặc điểm lâm sàng, nội soi, mô bệnh học của tổn thương polýp đại - trực tràng
Nghiên cứu do nhóm tác giả Nguyễn Cảnh Bình - Viện Y học Hàng không, Rey. P- HIA Legouest-Metz – France- Nguyễn Thị Thanh Thủy - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thực hiện.
Ảnh minh họa.
Polýp đại - trực tràng là một bệnh phổ biến trên thế giới, là một trong những nguyên nhân gây ung thư đại- trực tràng nhằm nghiên cứu các yếu tố thuận lợi phát triển bệnh, đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của polýp đại - trực tràng. Nghiên cứu 70 bệnh nhân (43 nam, 37 nữ, tuổi từ 20-80) tuổi trung bình 55,34 ?12,17, có polýp đại - trực tràng tại bệnh viện Legouest thuộc cộng hoà Pháp. Nội soi đại tràng toàn bộ tới manh tràng, polýp được cắt trong quá trình quá trình soi, gửi giải phẫu bệnh đọc kết quả.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, lứa tuổi thường hay mắc bệnh là từ 51-65, chiếm 41,4%. Thói quen uống rượu và/hoặc hút thuốc 54,29%. Tiền sử cắt polýp (30%), polýp gặp ở những người có huyết thống thế hệ 1 (25,71%). - Triệu chứng lâm sàng: đau bụng (44,29%), ỉa chảy (34,29%), táo bón (21,43%), phân lẫn máu (24,29%). - Vị trí polýp trong đại tràng: trực tràng (31,68%), đại tràng xuống (22,36%), sigma (16,77%), những nơi khác ít gặp hơn. - Kích thước polýp: dưới 6 cm là thường gặp, chiếm tỷ lệ (71,43%), từ 0,61-1cm (5,59%). - Polýp tuyến chiếm tỷ lệ (29,19%), polýp tăng sản chiếm tỷ lệ cao nhất (67,08%), các loại kích thước khác ít gặp hơn. Đối với polýp tuyến: loại tuyến ống (77,47%), loại tuyến nhú (6,38%), loại kết hợp ống- nhú (19,15%), loạn sản(12,77%). Nội soi đại tràng là một phương pháp cần thiết được thực hiện thường xuyên để phát hiện sớm polýp ở những người có những yếu tố nguy cơ, đó là một chiến lược để kiểm soát bệnh polýp đại- trực tràng.
Tap chí Y dược lâm sàng 108, số 2/2017