Nguyên Bộ trưởng Khoa học chỉ điểm khó Việt Nam tiếp cận 4.0
Phương thức đầu tư, cơ chế tài chính và thu hút nhân tài là điểm cần tháo gỡ ngay để Việt Nam tận dụng thời cơ từ cách mạng 4.0.
TS Nguyễn Quân. Ảnh: Loan Lê.
Trong chương trình kết nối đổi mới sáng tạo Việt vừa diễn ra, hơn 100 tài năng công nghệ trẻ người Việt trên thế giới về nước đã có nhiều đóng góp để Việt Nam tiếp cận cuộc cách mạng 4.0. TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ cũng chỉ ra những điểm bộn bề cần tháo gỡ.
- Từng ở vị trí tư lệnh ngành khoa học, công nghệ, ông nhìn nhận như thế nào về cơ hội của Việt Nam trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?
- Tôi không thích nói nhiều về cách mạng công nghiệp 4.0. Lý do, tôi cảm nhận rõ nước mình đang ở đâu trong bối cảnh kinh tế quốc tế. Việt Nam chưa có nhận diện đầy đủ về 4.0 để có hành động cụ thể.
Việt Nam có cơ hội rất lớn nhưng đầu tiên phải xác định rõ mình đang ở đâu? Theo tôi, nền kinh tế Việt Nam đang ở giữa cách mạng công nghiệp 2.0 và 3.0. Một số lĩnh vực như viễn thông, CNTT, ngân hàng, hàng không... đã đạt trình độ tương đối hiện đại, nhưng cũng mới tiệm cận cách mạng 3.0.
Hệ thống quản lý xã hội và quản lý sản xuất vẫn chậm đổi mới, ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quản lý cũ, chưa bắt kịp xu hướng hội nhập quốc tế.
Như vậy, để thực hiện cách mạng 4.0, trước hết các nhà quản lý cần có tư duy 4.0. Nghĩa là phải hiểu rõ, hiểu đúng nội dung của cách mạng này, từ đó xác định chiến lược phát triển quốc gia, lựa chọn được những ngành, lĩnh vực có thế mạnh, xác định thứ tự ưu tiên và vấn đề trọng điểm để thực hiện.
- Theo ông, lĩnh vực nào cần ưu tiên?
- Tôi cho rằng trước mắt cần tập trung CNTT (phần mềm, trí tuệ nhân tạo, bigdata, blockchain, internet vạn vật...). Lĩnh vực này chủ yếu phụ thuộc vào chất xám, không đòi hỏi quá nhiều vốn đầu tư, mà trí tuệ của người Việt chắc chắn không thua kém các quốc gia khác.
Thứ hai là công nghệ sinh học theo hướng thông minh, ứng dụng trong y tế và nông nghiệp. Việt Nam có dân số đứng thứ 13 thế giới, nhu cầu bảo vệ sức khỏe nhân dân rất lớn. Cả hai ngành này đều có nhu cầu đột phá về công nghệ.
Bên cạnh đó, với mục tiêu trở thành một nước công nghiệp, nhà nước cần đầu tư khôi phục ngành cơ khí chế tạo và vật liệu. Không có quốc gia công nghiệp nào lại không phát triển mạnh hai ngành này.
Muốn công nghiệp hóa phải tự chủ nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, nhất là một số vật liệu thiết yếu cho nền kinh tế như vật liệu hợp kim, chịu nhiệt, bán dẫn, polyme... Tiếp đến là năng lực chế tạo máy cái cho nền kinh tế, nhất là robot, phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị siêu trường siêu trọng...
- Theo ông đâu là rào cản khiến các ngành khó bứt phá?
- Tôi nghĩ vẫn còn nhiều rào cản trong tổ chức thực hiện. Nghị quyết Trung ương số 20, Luật Khoa học và Công nghệ 2013 và các văn bản hướng dẫn đã có, nhưng hệ thống vận hành chưa thực sự theo cơ chế thị trường và chưa tiệm cận với thông lệ quốc tế. Còn rất nhiều vướng mắc ở 3 trụ cột cần đổi mới: phương thức đầu tư; cơ chế tài chính và chính sách trọng dụng nhân lực khoa học.
Hiện đầu tư cho khoa học công nghệ ở nước ta chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước, chưa có biện pháp quyết liệt huy động đầu tư của xã hội nên mới đạt bình quân khoảng 20 USD/người/năm (khoảng 2 tỷ USD/năm). Các nước phát triển con số này là 500-1.000 USD/người/năm.
Thiếu vốn đầu tư, có giải pháp khả thi cho vấn đề này nhưng không được các cơ quan chức năng thực hiện quyết liệt. Ví dụ Luật Khoa học và Công nghệ 2013 và Nghị định 95/2014 đã quy định doanh nghiệp nhà nước phải dành tối thiểu 3%, tối đa 10% lợi nhuận trước thuế hàng năm để đầu tư cho khoa học công nghệ.
Chỉ cần trên 100 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện nghiêm quy định này, mỗi năm vốn đầu tư cho khoa học công nghệ của các doanh nghiệp đã có thể gấp đôi nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Thế nhưng chỉ vài tập đoàn lớn như Viettel, dầu khí... thực hiện. Các doanh nghiệp nhà nước khác hầu như không thực hiện mà cũng chưa thấy cơ quan nào kiểm tra, xử lý.
- Ông có thể nói rõ về những nút thắt cần tháo gỡ?
- Những nút thắt không mới. Hiện cơ chế tài chính đối xử với các đề tài, dự án công nghệ như với xây dựng cơ bản theo kiểu xây kế hoạch trước hàng năm, định mức thấp và lạc hậu, cấp tiền chậm, quyết toán theo năm tài chính...
Cơ chế đặt hàng lỏng lẻo nên sản phẩm nghiên cứu không tìm được địa chỉ ứng dụng hoặc không ai đầu tư tiếp. Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp cũng bị kiểm soát như sử dụng 100% vốn ngân sách.
Ngay cả cơ chế khoán chi trong nghiên cứu đã được 2 bộ Tài chính, Khoa học và Công nghệ ban hành cũng chưa áp dụng rộng rãi.
Việc thu hút trọng dụng cán bộ khoa học dù đã có chính sách, văn bản hướng dẫn tại Nghị định 40/2014 nhưng gần như chưa vào cuộc sống. Cả 3 đối tượng (nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học chủ trì nhiệm vụ của quốc gia và nhà khoa học trẻ tài năng) đều chưa được hưởng ưu đãi của nhà nước theo quy định.
Sự bứt phá này mới được một vài tập đoàn tư nhân triển khai với cơ chế thông thoáng, đãi ngộ xứng đáng để các nhà khoa học công nghệ sáng tạo, cống hiến. Lý do là họ có khát vọng và đích đến cụ thể.
Chính vì vậy, theo tôi để nắm bắt được thời cơ 4.0 đưa đất nước đi lên, yêu cầu cấp bách là phải hành động, tháo gỡ ngay rào cản ở ba trụ cột này.
Để làm được, người quản lý phải có tư duy như doanh nghiệp: coi trọng kết quả, hiệu quả, không nên chỉ tập trung quản lý đầu vào và quá trình làm sản phẩm khoa học công nghệ theo kiểu áp các quy định, quy trình, thủ tục...
Ông Trần Đặng Minh Trí, đồng sáng lập Công ty Harrison AI, Australia: "Thách thức lớn nhất của chúng ta trong cuộc cách mạng 4.0 là phải có nền tảng tốt. Đó là nền tảng pháp lý về sở hữu trí tuệ và dữ liệu. Thực tế dữ liệu của Việt Nam lớn nhưng còn phân mảnh và không có quy chuẩn. Vì vậy chúng ta cần xây dựng nền tảng dữ liệu chuẩn. Những tập đoàn lớn như FPT, Viettel, VNPT, Vingroup... với tiềm lực lớn rất có khả năng làm việc này. Tôi hi vọng được hợp tác với những tập đoàn lớn như vậy để xây dựng giải pháp lớn dựa trên nền tảng đang xây dựng".
GS Nghiêm Đức Long, Giám đốc Trung tâm công nghệ nước, Đại học Công nghệ Sydney, Australia: Với tiềm lực còn có hạn của một quốc gia đang phát triển, nên chúng ta cần phải tập trung vào những sản phẩm, vấn đề đặc thù của Việt Nam, sau đó là những sản phẩm đặc thù cho các nước đang phát triển.
Ví dụ trong chuyên ngành xử lý nước, ở các quốc gia phát triển việc xử lý nước thường cục bộ, bởi hệ thống được xây dựng và hoàn thiện từ rất lâu. Ở Việt Nam thường xây thành phố, xây hạ tầng cơ sở trước rồi mới tính đến chuyện xử lý nước. Do vậy, nếu áp dụng hệ thống xử lý nước của các nước phát triển là không phù hợp. Điều đó đòi hỏi các nhà khoa học phải nghiên cứu để nội địa hóa, biến hệ thống đó thành hệ thống đặc thù cho các nước đang phát triển và đặc thù cho Việt Nam.
|