Bệnh tụ huyết trùng trâu bò và cách phòng trị
Bệnh tụ huyết trùng thường xảy ra khi thời tiết nóng ẩm, mưa nắng thất thường hoặc gia súc thay đổi điều kiện sống, điển hình ở trâu, bò chuyển vùng.
1. Nguyên nhân gây bệnh:
Bệnh do vi khuẩn Pasteurella gây nên. Vi khuẩn tụ huyết trùng dễ bị tiêu diệt bởi sức nóng, ánh nắng mặt trời và chất sát trùng. Vi khuẩn bị diệt ở nhiệt độ 58°C trong 20 phút, 80°C sau 10 phút; 100°C chết ngay.
Trong tổ chức của động vật bệnh bị thối nát, vi khuẩn sống được 1 - 3 tháng, các chất sát trùng thông thường diệt vi khuẩn nhanh chóng như axit phenic 5%, crezil 3%, nước vôi 1%, formol 2% ....
Vi khuẩn sống khá lâu và sinh sản trong đất ẩm thiếu ánh sáng, có nhiều muối nitrat và chất hữu cơ. Trong chuồng nuôi súc vật và trên đồng cỏ vi khuẩn sống hàng tháng, có khi hàng năm.
2. Điều kiện lây lan bệnh
a) Loài vật mắc bệnh
Trong tự nhiên, trâu bò dễ mắc bệnh nhất. Bệnh từ trâu, bò có thể lây sang ngựa, chó và lợn. Vì vậy, trong ổ dịch tụ huyết trùng trâu, bò cần chú ý phòng bệnh cho các loài động vật này. Bê, nghé đang bú mẹ ít mắc, trâu bò 2 - 3 tuổi mắc bệnh nhiều hơn trâu, bò già. Ở nước ta, trâu thường mắc bệnh nhiều và nặng hơn bò.
b) Cách nhiễm bệnh
Bệnh tụ huyết trùng thường phát sinh ở các vùng nóng ẩm. Vào mùa mưa, vi khuẩn sẵn có trong đất được nước đưa lên mặt đất, dính vào rơm, cỏ và nước uống. Trâu bò ăn, uống phải vi khuẩn sẽ nhiễm bệnh.
Sau khi vào đường tiêu hoá, vi khuẩn qua niêm mạc bị tổn thương do ký sinh trùng, rơm, cỏ cứng và dị vật, chúng xâm nhập vào máu, đến hệ thống lympho ruột, hạch sau hầu làm hạch này sưng rất to. Từ đó, vi khuẩn xâm nhập vào các hạch lympho khác như hạch trước vai, hạch trước đùi làm cho các hạch này cũng sưng to và bị thuỷ thũng. Vì vậy trâu, bò bị bệnh tụ huyết trùng thường có biểu hiện đặc trưng là sưng hạch hầu.
Trong điều kiện bình thường, ở đa số trâu, bò khoẻ, vi khuẩn tụ huyết trùng thường sống trên niêm mạc đường hô hấp. Có tới 80% số trâu, bò khỏe mang vi khuẩn nhưng chúng không gây bệnh, giữa vi khuẩn và súc vật có sự cân bằng sinh học. Khi gặp các yếu tố ngoại cảnh bất lợi như: thời tiết thay đổi đột ngột, thiếu thức ăn, làm việc nặng nhọc, thay đổi điều kiện sống… làm sức đề kháng của con vật giảm sút, thế cân bằng sinh học bị phá vỡ, vi khuẩn tăng cường độc lực, tăng nhanh số lượng và xâm nhập vào máu để gây bệnh.
c) Phương thức truyền lây
Bệnh lây lan trực tiếp từ con ốm sang con khỏe thông qua tiếp xúc, chung đụng nguồn thức ăn, nước uống, nhốt cùng chuồng, chăn cùng bãi chăn thả hoặc dùng chung các dụng cụ chăn nuôi.
Bệnh có thể lan xa do việc mổ thịt súc vật ốm, phân tán thịt, da. Chó, mèo, chuột, côn trùng hút máu là các môi giới trung gian truyền bệnh đi xa.
d) Mùa phát bệnh
Bệnh xảy ra rải rác quanh năm ở các vùng nóng ẩm, nhưng thường tập trung vào mùa mưa (từ tháng 6 - tháng 9).
3. Triệu chứng
Trâu, bò thường mắc bệnh ở 3 thể sau đây:
- Thể quá cấp tính: Trâu bò bị thể bệnh này có biểu hiện đột nhiên bò sốt cao, run rẩy, có triệu chứng thần kinh như hung dữ, điên cuồng, đập đầu vào chuồng, chết nhanh trong 24 giờ. Thường rất ít triệu chứng lâm sàng.
- Thể cấp tính: Bệnh thường ở thể cấp tính đối với trâu bò, thời gian nung bệnh chỉ 1-3 ngày, thể hiện không nhai lại, mệt nhọc, sốt cao đột ngột 40-410C; nước mắt, mũi chảy liên tục; niêm mạc mắt, mồm, mũi, tổ chức dưới da có tụ huyết đỏ sẫm; tối xám.
Hạch lâm ba sưng, nhất là ở hầu sưng rất to do vậy thú bệnh phải lè lưỡi ra, thở khó, thường gọi là "bệnh trâu bò hai lưỡi". Hạch lâm ba vai, đùi sưng, thủy thũng nên gia súc bệnh đi lại khó khăn.
Trâu, bò bị bệnh ở thể phổi thì thở mạnh và khó do màng phổi viêm, tràn dịch, tụ huyết, viêm phổi cấp. Một số trâu bò bị thể đường ruột thì chùm hạch ruột to có xuất huyết, niêm mạc ruột tụ, xuất huyết nặng, tróc ra, ỉa chảy dữ dội, phân lẫn máu.
Lúc gần chết, trâu bò bệnh nằm liệt, đái ra máu, thở rất khó, xuất huyết ở các niêm mạc. Diễn biến bệnh trong 3 đến 5 ngày, tỷ lệ chết đến 90-100%, nếu nhiễm trùng máu chết nhanh hơn trong 1-1,5 ngày.
- Thể mãn tính: Nếu gia súc bệnh không chết sẽ chuyển ra mãn tính, với các biểu hiện: viêm ruột làm gia súc lúc ỉa chảy, lúc táo bón . Viêm khớp dẫn đến gia súc đi lại khập khiễng, khó khăn. Viêm phế quản và phổi mãn tính (ho kéo dài). Trong vài tuần, gia súc có thể khỏi bệnh nhưng thường gầy rạc.
4. Bệnh tích
Tụ huyết và xuất huyết ở niêm mạc mắt, mồm, mũi và tổ chức dưới da. Cơ thịt mầu tím hồng thấm nhiều nước.
Hệ thống hạch lâm ba sưng to, thuỷ thũng và xuất huyết rõ nhất là hạch hầu, hạch vai và hạch trước đùi.
Tim sưng to trong xoang bao tim, màng phổi, xoang ngực và xoang bụng tích nhiều nước vàng. Phổi viêm gan hoá từng đám.
5. Chẩn đoán bệnh
Dựa vào dịch tễ, triệu chứng, bệnh tích điển hình như sốt cao đột ngột, niêm mạc mắt, mũi đỏ sẫm rồi tái xám. Nước mắt, nước mũi chảy liên tục. Các hạch lâm ba sưng, đặc biệt là hạch dưới hầu sưng rất to, làm cho con vật lè lưỡi ra, thở khó. Hạch lâm ba trước vai, trước đùi sưng, thuỷ thũng, làm cho con vật đi lại khó khăn. Tim sưng to trong xoang bao tim, màng phổi, xoang ngực và xoang bụng tích nhiều nước vàng. Phổi viêm gan hoá từng đám.
Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Phân lập vi khuẩn gây bệnh.
6. Phòng bệnh
a) Vệ sinh phòng bệnh
Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, định kỳ tẩy uế, tiêu độc khủ trùng. Ở bãi chăn thả và quanh khu vực chuồng nuôi cần phát quang bụi rậm, khơi thông cống rãnh, thoát nước ở chỗ có vũng nước tù để hạn chế sự tồn tại của mầm bệnh trong tự nhiên.
Tăng cường sức đề kháng cho con vật bằng cách vệ sinh thức ăn, nước uống, ăn, uống đủ, chăm sóc sử dụng và khai thác hợp lý.
Khi có dịch xảy ra phải phát hiện kịp thời gia súc ốm để cách ly điều trị, tránh làm lây lan bệnh, công bố dịch, cấm không cho vận chuyển và mổ thịt trâu, bò. Trâu, bò chết phải chôn sâu, đổ vôi bột vào hố chôn.
Toàn bộ chuồng trại, bãi chăn phải được vệ sinh, tẩy uế và trống chuồng, bãi chăn thả triệt để. Đốt rác thải và ủ phân có trộn vôi bột để tiêu diệt mầm bệnh.
b) Phòng bệnh bằng vắc xin
Tiêm vắc xin tụ huyết trùng, liều lượng và cách dùng theo khuyến cáo của nhà sản xuất; Thông thường, 6 tháng tiêm nhắc lại 1 lần.
Chú ý, đối với trâu, bò chuẩn bị vận chuyển, thay đổi điều kiện sống cần tiêm vắc xin trước khi chuyển đàn 21 ngày.
7. Điều trị bệnh
Do bệnh thường xảy ra ở thể quá cấp và cấp tính nên cần phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời mới có kết quả cao.
a) Dùng kháng sinh để điều trị bệnh: Có thể dùng 1-2 loại kháng sinh sau đây: Streptomycin, Ampikana, Oxytetracylin, Gentamicin - Doxycyclin, Lincospecto. Liều lượng và cách dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
b) Trợ sức: Ngoài việc dùng kháng sinh cần tiêm cho con vật các thuốc trợ tim, trợ sức như: Long não, Cafein, Stricnin, Analgil và Vitamin B1, Vitamin C. Trong những trường hợp cần thiết có thể truyền dịch. Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng để vật nuôi nhanh bình phục.
Khuyennongvn số 10/2018 (dtnkhanh)