Nghiên cứu ảnh hưởng của đèn led đến sinh trưởng và phát triển của cây lan hồ điệp ở giai đoạn chăm sóc cây trong nhà lưới
Trong những năm gần đây, cùng với nhu cầu và sự phát triển nhanh chóng của ngành sản xuất kinh doanh hoa cây cảnh nói chung thì nhu cầu sử dụng hoa lan Hồ điệp nói riêng ở Việt Nam cũng tăng rất nhanh.
Ảnh minh họa
Bên cạnh nhu cầu về số lượng thì đòi hỏi về chất lượng hoa cũng ngày càng cao. Lan Hồ điệp được tiêu thụ nhiều nhất ở các thành phố lớn và chủ yếu được nhập về từ Đài Loan, Trung Quốc... Điều này cho thấy sản xuất hoa lan Hồ điệp ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người dân. Trong nông nghiệp công nghệ cao, việc nhân giống các cây nông nghiệp nói chung, bảo tồn và phát triển nguồn gen thực vật quí hiếm nói riêng, hầu hết cây giống được nhân giống bằng kỹ thuật nuôi cấy mô, giai đoạn đầu cây giống được trồng trong các nhà lưới, nhà kính... Trong điều kiện như vậy, việc chiếu sáng cho phòng thí nghiệm nuôi cấy mô, cho cây sinh trưởng trong nhà kính, nhà lưới là yêu cầu bắt buộc (Nguyễn Việt Chương, Nguyễn Việt Thái, 2008) và việc tìm ra giải pháp tốt nhất về nguồn sáng nhằm nâng cao chất lượng cây giống cũng như hạ giá thành sản phẩm cây trồng cũng đang được quan tâm hàng đầu. Các nghiên cứu cho thấy thông qua sự thay đổi chế độ chiếu sáng cho cây trồng, chúng ta có thể làm thay đổi sự sinh trưởng, phát triển của cây (Nguyễn Quang Thạch và ctv., 2005). Trong nông nghiệp, đèn LED được ứng dụng ươm tạo giống cây, kích thích sinh trưởng cây trồng, cải thiện đáng kể mật độ cây trồng, có thể chiếu sáng gần mà không tạo hiệu ứng nhiệt gây hại cây trồng, cải thiện chất lượng nông sản, giúp tăng giá trị dinh dưỡng, giảm nồng độ nitrat trong rau quả.
Ở Việt Nam, hệ thống trồng rau sạch sử dụng đèn LED với các tỷ lệ ánh sáng xanh đỏ khác nhau được thử nghiệm tại Đà Lạt và Cần Thơ cho thấy năng suất, chất lượng rau cao hơn hẳn so với đèn huỳnh quang thông thường, trong khi điện năng giảm đến 60% (Ngô Văn Quyền, 2016). Tuy nhiên, để xác định được loại đèn LED có tỷ lệ các thành phần phổ ánh sáng tối ưu cho mỗi loại cây trồng, cần tiếp tục nghiên cứu thêm và đặc biệt là đối với lan Hồ điệp thì chưa có các nghiên cứu ứng dụng công nghệ LED nhằm phát huy tối ưu hiệu suất sử dụng năng lượng của cây trồng. Nghiên cứu “Ảnh hưởng của đèn LED đến sinh trưởng và phát triển của cây lan Hồ điệp ở giai đoạn chăm sóc cây trong nhà lưới” được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề trên.
Nghiên cứu do Nhóm tác giả gồm: Lương Thuý Hằng, Lê Quang Thái, Vũ Thị Phượng (Trung tâm Ươm tạo Công nghệ và Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ, Viện Ứng dụng công nghệ) nghiên cứu được tiến hành tại Trung tâm Ươm tạo Công nghệ và Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ - Viện Ứng dụng công nghệ, thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 12 năm 2017.
Các giống Lan được sử dụng trong nghiên cứu là: Giống lan Hồ điệp Phal Taida salu ở giai đoạn cây con sau nuôi cấy mô đến 18 tháng tuổi. Cây có đủ thân lá, rễ, không bị nấm bệnh, trọng lượng tươi > 1,5 g/cây. Cây được trồng trong chậu nhựa dẻo, trong suốt có các đường kính 5 cm; 8,3 cm hoặc 12 cm tùy vào tuổi của cây và được chiếu sáng bổ sung với các điều kiện chiếu sáng khác nhau.
Hệ thống chiếu sáng được sử dụng là hệ thống đèn LED dùng trong thí nghiệm là do Trung tâm Công nghệ vi điện tử và tin học - Viện Ứng dụng công nghệ chế tạo, có các thông số kỹ thuật: điện áp vào 220 V, điện áp ra 12 V, bóng có công suất 20 W (mỗi bóng gồm 40 chip LED, mỗi chip LED có công suất 0,5 W), chiều cao 15 cm và đường kính 12 cm. Đèn được kết hợp bởi các LED xanh (có bước sóng từ 450 - 470 nm) và LED đỏ (có bước sóng từ 630 - 650 nm). Tùy theo từng thí nghiệm mà tỉ lệ LED xanh và LED đỏ được bố trí trong mỗi bóng đèn là khác nhau. Khoảng cách từ bóng đèn đến cây là 45 cm. Cường độ ánh sáng trong ô thí nghiệm là 30 µmol.m-2.s-1 (trừ thí nghiệm 2). Thời gian chiếu sáng bổ sung 8 giờ vào ban ngày (trừ thí nghiệm 4) bắt đầu từ 6 giờ sáng và trong 4 tuần.
Các thí nghiệm trong nghiên cứu được bố trí như sau:
+ Thí nghiệm 1: Nghiên cứu lựa chọn đèn LED có bước sóng phù hợp với sinh trưởng và phát triển của cây lan Hồ điệp. Công thức 1: Đèn LED 100% ánh sáng xanh; công thức 2: đèn LED 100% ánh sáng đỏ; công thức 3: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 1/1; công thức 4: đối chứng (không chiếu đèn LED).
+ Thí nghiệm 2: Nghiên cứu, lựa chọn cường độ sáng của đèn LED phù hợp với sinh trưởng và phát triển của cây lan Hồ điệp. Sử dụng đèn LED có tỷ lệ xanh/đỏ là 1/1: Công thức 1: cường độ ánh sáng 25 µmol.m-2.s-1; công thức 2: cường độ ánh sáng 30 µmol.m-2.s-1; công thức 3: cường độ ánh sáng 35 µmol. µmol.m-2.s-1; công thức 4: đối chứng (không chiếu đèn LED).
+ Thí nghiệm 3: Nghiên cứu phối hợp các liều lượng phổ ánh sáng (xanh, đỏ...) khác nhau phù hợp cho cây lan Hồ điệp. Công thức 1: Đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 1/1; công thức 2: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 1/2; công thức 3: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 1/3; công thức 4: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 1/4; công thức 5: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 2/1; công thức 6: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 3/1; công thức 7: đèn LED có tỷ lệ ánh sáng xanh/đỏ là 4/1; công thức 8: đối chứng (không chiếu đèn LED).
+ Thí nghiệm 4: Nghiên cứu quang chu kỳ của đèn LED phù hợp cho cây lan Hồ điệp. Sử dụng đèn LED có tỷ lệ xanh/đỏ là 1/1. Công thức 1: thời gian chiếu sáng bổ sung 6 giờ; công thức 2: thời gian chiếu sáng bổ sung 8 giờ; công thức 3: thời gian chiếu sáng bổ sung 12 giờ; công thức 4: đối chứng (không chiếu đèn LED).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn chăm sóc cây con trong nhà lưới đối với giống hoa lan Hồ điệp ứng dụng công nghệ đèn LED:
- Sử dụng đèn LED có bước sóng ứng với ánh sáng có tỷ lệ xanh/đỏ là 1/1 (50% xanh + 50% đỏ) phù hợp nhất cho sinh trưởng và phát triển của lan Hồ điệp trong giai đoạn chăm sóc cây con trong nhà lưới.
- Sử dụng đèn LED ở cường độ sáng 30 µm/m2 /s-1 có tác động hiệu quả nhất tới sự phát triển của cây ở giai đoạn chăm sóc trong nhà lưới.
- Ở giai đoạn chăm sóc trong nhà lưới, số giờ chiếu sáng bổ sung bằng đèn LED tốt nhất cho cây lan Hồ điệp là 8 h/ngày.
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(100)/2019