Bổ sung quy định xử phạt hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
Bộ KH&CN đề xuất bổ sung quy định xử phạt đối với hành vi xuất khẩu hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp; hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý...
Lực lượng Quản lý Thị trường kiểm tra cơ sở kinh doanh gần 2.000 chiếc khẩu trang giả mạo nhãn hiệu Gucci và Puma tại Cầu Giấy (Hà Nội). Ảnh minh họa
Theo Bộ KH&CN, Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013. Nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và tạo thuận lợi cho các lực lượng thực thi trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, Chính phủ đã ban hành các Nghị định: Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị định số 51/2019/NĐ-CP ngày 13/6/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ và Nghị định số 107/2013/NĐ-CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Các Nghị định này đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tạo hành lang pháp lý hữu hiệu để đảm bảo công tác xử lý, xử phạt vi phạm hành chính, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Luật số 67/2020/QH14 được ban hành với những quy định sửa đổi, bổ sung liên quan trực tiếp đến các Nghị định nêu trên như: bổ sung quy định về vi phạm hành chính nhiều lần; bổ sung quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm; sửa đổi, bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; tăng thẩm quyền xử phạt của một số chức danh; thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; thủ tục xử phạt vi phạm hành chính... Những nội dung sửa đổi, bổ sung này trong Luật số 67/2020/QH14 đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung các nội dung tương ứng tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ; năng lượng nguyên tử.
Đồng thời, trong quá trình triển khai thi hành các Nghị định nêu trên đã phát sinh những bất cập, hạn chế, đặc biệt trong quá trình thanh tra và xử lý vi phạm. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các Nghị định hiện hành nhằm tháo gỡ vướng mắc thực tiễn cũng là yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cần phải giải quyết.
Bộ KH&CN cho biết, mục đích xây dựng dự thảo nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KH&CN, bảo đảm phù hợp với Luật số 67/2020/QH14 và tháo gỡ những vướng mắc lớn trong thực tiễn, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Riêng đối với lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Bộ KH&CN cho biết, thực tiễn tổ chức thực hiện Nghị định số 99/2013/NĐ-CP đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc.
Cụ thể như sau: (i) Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ban hành năm 2013, chưa quy định xử phạt đối với hành vi xuất khẩu tuy nhiên Luật Hải quan năm 2014 (Điều 74) quy định thủ tục đề nghị kiểm tra, giám sát, tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu; (ii) Quy định hiện hành tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP không phù hợp khi vừa áp dụng xử phạt bổ sung tịch thu tang vật và vừa áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc tiêu hủy hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; (iii) Quy định hiện hành tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP về hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và đình chỉ hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm không phù hợp khi áp dụng cho tất cả các hành vi vi phạm mà không quy định điều kiện, tiêu chí áp dụng; (iv) Quy định hiện hành tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP về biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả không phù hợp khi liệt kê tất cả các biện pháp tại các Điều 8, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14;
(v) Một số quy định tại Điều 6, Điều 27 của Nghị định 99/2013/NĐ-CP cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, bản chất của quan hệ dân sự và thực tiễn áp dụng, thi hành. Từ thực tiễn này, Bộ KH&CN đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 99/2013/NĐ-CP.
Về hành vi vi phạm: Bổ sung quy định xử phạt đối với hành vi xuất khẩu hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp; hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý giả mạo và hàng hóa, dịch vụ có gắn chỉ dẫn thương mại lên hàng hóa, dịch vụ gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại (Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14) đảm bảo phù hợp với Luật Hải quan năm 2014. Đồng thời, quy định này cũng đảm bảo phù hợp với cam kết tại CPTPP và EVFTA;
Sửa đổi nâng mức phạt đối với hành vi vi phạm quy định về chỉ dẫn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng” thành “Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng” (Điều 6) để phù hợp tính chất của hành vi vi phạm và thống nhất với các hành vi có tính chất, mức độ vi phạm tương tự trong Nghị định 99/2013/NĐ-CP;
Sửa đổi, bổ sung quy định về hành vi sản xuất hàng hóa xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp; hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (Điều 11, Điều 12) để đảm bảo sự thống nhất giữa các điều luật, đồng thời thuận lợi, rõ ràng hơn trong áp dụng pháp luật. Cụ thể: quy định rõ “Sản xuất bao gồm: Thiết kế, chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp”.
Về hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả: Sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp tại Điều 3 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP để phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính và thực tiễn áp dụng.
Cụ thể, đối với quy định về hình thức xử phạt bổ sung tại khoản 2 Điều 3: (i) sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thành “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý; nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng được thực hiện do lỗi cố ý đối với các hành vi quy định tại Điều 12 của Nghị định”; (ii) sửa đổi, bổ sung quy định áp dụng đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong trường hợp lỗi cố ý, tính chất, mức độ nghiêm trọng và hậu quả nghiêm trọng;
Đối với quy định về biện pháp khắc phục hậu quả tại khoản 3 Điều 3: (i) Sửa đổi, bổ sung quy định áp dụng biện pháp buộc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp và không gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường; (ii) bỏ quy định về biện pháp buộc tái xuất và biện pháp buộc tiêu hủy đối với phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý; (iii) đồng thời bổ sung thêm các quy định: “Trong trường hợp áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc tái xuất, tuy nhiên không thể buộc tái xuất được, thì áp dụng biện pháp buôc tiêu hủy” và “Buộc tiêu hủy hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trong trường hợp hàng hóa vi phạm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường”;
Sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả tại Điều 8, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP, cụ thể sửa đổi, bổ sung đoạn mở đầu của các khoản quy định về hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả thuộc các Điều 8, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14 theo hướng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả, trường hợp không áp dụng phải nêu rõ lý do. Theo đó cho phép người ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính căn cứ tính chất, mức độ vi phạm của tổ chức, cá nhân, để áp dụng một hoặc nhiều hoặc không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp.
Việc sửa đổi nêu trên để phù hợp với nguyên tắc của Luật Xử lý vi phạm hành chính và phù hợp với thực tiễn áp dụng. Đồng thời, việc sửa đổi, bổ sung cũng ngăn chặn hiểu nhầm rằng mỗi hành vi vi phạm đều phải áp dụng tất cả các hình thức xử phạt bổ sung và các khắc phục hậu quả, gây lúng túng và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Bổ sung Điều 15a quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính nhằm xác định cụ thể người có thẩm quyền làm căn cứ để ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa được đề cập trong Nghị định số 99/2013/NĐ-CP (thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã quy định cụ thể trong Nghị định);
Sửa đổi, bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP. Cụ thể là quản lý thị trường tại Điều 18 (cụ thể là: Trưởng phòng Nghiệp vụ thuộc Cục Nghiệp vụ quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường cấp tỉnh và Cục trưởng Cục Nghiệp vụ quản lý thị trường trực thuộc Tổng cục Quản lý thị trường, Tổng Cục trưởng Tổng cục Quản lý thị trường), Hải quan tại Điều 19 (Tổ trưởng thuộc Đội Kiểm soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Đội trưởng Đội điều tra hình sự; Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ), Công an tại Điều 20 (Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu) cho phù hợp với quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC năm 2020 do thay đổi về tổ chức, hoạt động và tên gọi;
Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của một số chức danh thành có giá trị không vượt quá “02 lần” mức tiền phạt tại điểm c khoản 1, điểm d khoản 2, điểm d khoản 4 của Điều 16; điểm c khoản 1, điểm d khoản 2, điểm d khoản 4 của Điều 17; điểm c khoản 1, điểm d khoản 2 của Điều 18; điểm c khoản 2, điểm d khoản 3 của Điều 19; điểm c khoản 1, điểm d khoản 2, điểm d khoản 3 của Điều 20; điểm d khoản 1 của Điều 21, ngoại trừ các chức danh có thẩm quyền xử phạt tối đa cho phù hợp với quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật XLVPHC năm 2020.
Về quy định chung và trình tự, thủ tục xử lý vi phạm: Bổ sung Điều 2a vào sau Điều 2 Quy định thời hiệu xử phạt và vi phạm hành chính nhiều lần tại Nghị định nhằm cụ thể quy định điểm a khoản 4 Điều 1 và điểm d khoản 2 Điều 1 Luật số 67/2020/QH;
Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền yêu cầu của chủ thể quyền và thỏa thuận giữa các bên trong quá trình giải quyết vụ việc về sở hữu công nghiệp tại Khoản 1 Điều 27 để phù hợp hơn với bản chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ.
Về quan điểm chỉ đạo trong xây dựng dự thảo, Bộ KH&CN nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung quy định tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính phải bảo đảm phù hợp với các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Luật số 67/2020/QH14 cũng như các văn bản luật khác điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh vực KH&CN. Đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan trực tiếp đến những khó khăn, vướng mắc chủ yếu trong thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ; năng lượng nguyên tử;
Tăng cường tính công khai, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm dân chủ trong xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân;
Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước;
Bảo đảm tính tương thích của các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Hán Hiển