Chính sách năng suất của Nhật Bản: Kinh nghiệm và bài học đối với Việt Nam
Nhật Bản không phải là quốc gia duy nhất mà Việt Nam có thể học hỏi về năng suất. Tuy nhiên, Nhật Bản là hình mẫu tuyệt vời trong cải thiện năng suất (đặc biệt trong sản xuất), có nhiều kinh nghiệm trong việc chuyển giao một cách hệ thống những phương pháp của họ tới những quốc gia khác. Hơn thế nữa, Chính phủ Nhật Bản và các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại Việt Nam đã thể hiện sự sẵn sàng tiếp tục hợp tác với Việt Nam cho mục đích công nghiệp. Bài viết đề xuất Việt Nam nên áp dụng chính sách năng suất của Nhật Bản một cách mạnh mẽ và nhất quán, đặc biệt là trong tổ chức bộ máy và kinh nghiệm thúc đẩy phong trào năng suất quốc gia (PTNSQG) hữu hiệu.
Tổ chức bộ máy đầy đủ
Để năng suất trở thành ưu tiên quốc gia hàng đầu, một hệ thống chính sách phù hợp phải được thiết lập để thực hiện một PTNSQG toàn diện. Hệ thống này nên được sắp xếp như thế nào tùy thuộc vào bản chất chính trị, năng lực hành chính, sự năng động của khu vực tư nhân, cấu trúc xã hội, tư duy phổ biến và những yếu tố riêng biệt khác của mỗi quốc gia. Trong quá trình công nghiệp hoá, Nhật Bản đã phát triển một lớp dày các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy năng suất.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) là bộ chịu trách nhiệm và Cơ quan Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và Đổi mới sáng tạo vùng của Nhật Bản (SMRJ) thuộc METI chịu trách nhiệm xây dựng chính sách quốc gia cho DNVVN. Cũng có rất nhiều bộ máy hỗ trợ tại các tỉnh và thành phố phối hợp với các cơ quan quốc gia. Hơn thế nữa, có rất nhiều tổ chức phi chính phủ giúp đỡ các DNVVN và hỗ trợ các ngành, như ngân hàng địa phương, tổ chức tín dụng, hiệp hội công nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận về kinh doanh, các trường đại học và viện nghiên cứu. Về mặt nhân lực, Nhật Bản cũng có rất nhiều chuyên gia công nghiệp có kinh nghiệm (nhưng đã có tuổi) sẵn sàng làm việc với mức phí thấp vì mục đích chung.
Về mặt thực thi, Việt Nam cần một cơ quan có thẩm quyền và năng động để thực hiện và giám sát các chính sách do Hội đồng Năng suất Quốc gia quyết định. Có thể lựa chọn 1 trong 3 phương án cho việc này: (1) Củng cố và nâng cấp Viện Năng suất Việt Nam (VNPI) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), để trở thành cơ quan thực thi PTNSQG (điều này đòi hỏi phải tăng cường đáng kể năng lực của VNPI và nâng cao vị thế chính thức của VNPI); (2) Tạo ra một cơ quan mới do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo để thay thế (và tiếp nhận các chức năng hiện tại) của VNPI; (3) Thành lập một cơ quan mới thuộc một bộ (việc lựa chọn bộ nào cần được xem xét kỹ lưỡng) nhưng có đủ thẩm quyền để thực hiện một phong trào toàn quốc và điều phối các bộ, cơ quan liên quan, với sự ủng hộ mạnh mẽ của các lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là đào tạo và cung cấp các chuyên gia công nghiệp có năng lực, có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam, là những người có thể truyền đạt các kiến thức cơ bản cho các công ty, công nhân và các chuyên gia mới của Việt Nam một cách hiệu quả. Các chuyên gia được đào tạo phải được khuyến khích đúng cách để tham gia thực hiện các nhiệm vụ đóng góp cho quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam trong một thời gian dài. Để tạo ra các chính sách và nguồn nhân lực cần thiết này, sự hợp tác của các tổ chức Nhật Bản như Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Công ty Tư vấn cảng Nhật Bản (JPC), Hiệp hội Tư vấn quản lý DNVVN Nhật Bản (J-SMECA)… sẽ rất hữu ích.
Thúc đẩy PTNSQG
Thứ nhất, PTNSQG của Nhật Bản không chỉ là một hoặc hai dự án kéo dài trong một vài năm mà nó là một gói chương trình toàn diện với nhiều thành phần, đòi hỏi nỗ lực nhất quán trong vài năm trở lên. PTNSQG của Nhật Bản cũng bắt đầu bằng việc nâng cao nhận thức và thay đổi tư duy, đây là giai đoạn đầu tiên và thường là khó khăn nhất.
Thứ hai, lãnh đạo quốc gia cao nhất (thường là Thủ tướng) có sự cam kết và tham gia mạnh mẽ vào PTNSQG của Nhật Bản. Ngoài cam kết từ lãnh đạo cao nhất, khát vọng quốc gia của mọi thành viên: Chính phủ, doanh nhân, kỹ sư, công nhân, học sinh và ngay cả những công dân bình thường có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy PTNSQG của Nhật Bản.
Thứ ba, không chỉ là nhận thức, cam kết của lãnh đạo cao nhất, PTNSQG của Nhật Bản còn được tạo nên bởi hệ thống chính sách phù hợp với ngân sách và nhân lực để hỗ trợ thực hiện ở tất cả các giai đoạn. Đối với bất kỳ chính sách nào, Chính phủ Nhật Bản có thể hỗ trợ trực tiếp cho khu vực tư nhân bằng cách cung cấp các dịch vụ khác nhau thông qua các cơ sở và nhân viên Chính phủ, hoặc gián tiếp bằng cách đặt ra các mục tiêu, định hướng, quy tắc... và chỉ dẫn các công ty thông qua ưu đãi và trợ cấp.
Thứ tư, để tạo ra PTNSQG, Nhật Bản đã tạo ra một số lượng lớn các công cụ và tài liệu thực hành từ việc học hỏi một cách tốt nhất, sau đó tạo ra một mô hình mới phù hợp nhất với thực tiễn trong nước thông qua chọn lọc, điều chỉnh và kết hợp với các thành phần nước ngoài. Những công cụ này có thể được thực hiện bởi các cơ quan thực thi năng suất hoặc có thể được thuê ngoài từ các viện và trung tâm riêng biệt, bao gồm: các thông tin và phân tích hữu ích để tạo lập một mô hình và tiêu chuẩn quốc gia; giáo trình, chương trình và những tài liệu chuẩn khác; chương trình đào tạo công nhân…
Bài viết được tóm tắt từ bài viết của tác giả PGS.TS Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược, GS.TS Ohno Kenichi - Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản.
ntptuong
Tạp chí KH&CN VN, số 08 năm 2021 (trang 19-20)