SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Vi bọc dầu gấc (Momordica cochinchinensis Spreng.) trong hạt Ca-Alginate sản xuất từ thiết bị tia cắt

[28/09/2021 16:39]

Dầu gấc (Momordica cochinchinensis Spreng.) được vi bọc trong hạt Ca-Alginate bằng thiết bị tia cắt. Các thí nghiệm cho thấy cách chuẩn bị nhũ tương và các thông số thiết bị ảnh hưởng có ý nghĩa đến kích thước hạt, hiệu suất vi bọc, năng suất tải và hiệu suất thu hồi của thiết bị.

Công nghệ vi bọc hoạt chất được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực dược phẩm để kiểm soát tốc độ phóng thích thuốc, làm giàu dưỡng chất cho thực phẩm, để tránh oxy hóa hoạt chất trong mỹ phẩm. Vi bọc theo phương pháp ion-gel (ionotropic gelation) được thực hiện bằng cách hòa tan hay khuếch tán hoạt chất trong polymer điện tích âm và nhỏ giọt vào bể chứa ion dương của kim loại kiềm để tạo hạt có liên kết ion. Nguyên lý tạo hạt kiểu nhỏ giọt có thể được thực hiện bằng tạo từng giọt dùng vòi tiêm, tĩnh điện rung dao động và thiết bị tia cắt. Phương pháp nhỏ giọt dùng vòi tiêm cho kích thước hạt 1,5 mm hoặc 2 – 3 mm theo cấu trúc của alginate, ít dùng trong công nghiệp do năng suất thấp và chỉ áp dụng cho dịch có độ nhớt dưới 200 mPas.

Dầu gấc của công ty Gacviet Fruit, Việt nam. Sodium Alginate, Sodium citrate, CaCl2 và hexan của Trung Quốc, trong đó Sodium Alginate có 2,4% protein và ít tạp chất đã được kiểm tra trong nghiên cứu trước. Ở nồng độ 2.5% alginate, hạt có dạng cầu với kích thước 1,07 - 1,18 mm khi lưu lượng dịch 14 mL/p và tốc độ đĩa cắt 400 - 800 v/p. Mẫu trữ 2 giờ sau đồng hóa cho hiệu suất vi bọc (83 - 84%) và kích thước hạt (1,07 mm) tốt hơn mẫu trữ 24 giờ sau đồng hóa (79% và 1,18 mm). Khi tăng năng suất tải 20 - 40%, tỉ lệ mole (CaCl2-alginate) trong hạt vi bọc giảm từ 1,55 xuống 0,86.

Thiết bị đĩa cắt (Jetcutter) đã hoạt động ổn định tạo được hạt vi bọc dầu gấc ở nồng độ 2,5% alginate có kích thước (1,07mm) nhỏ hơn kiểu dòng tia không đĩa cắt (dripping method, d = 3 - 4 mm), nhỏ hơn kiểu nhỏ giọt (dropping method, d ≥ 1,5 mm), và có năng suất vượt trội. Các mẫu không lạnh ở nồng độ alginate 2,5% với n = 400 - 600 v/p có MEY cao nhất, NST cao nhất, thu hồi hạt YR cao nhất, kích thước hạt bé nhất, độ đồng đều kích thước cao nhất nên là mẫu tốt nhất của thiết bị khảo sát. Thiết bị tia cắt ở nồng độ alginate cao trên 2% có ưu điểm so với các dạng tạo hạt khác về năng suất và hình thái hạt.

Số liệu tỉ lệ mole này có thể tham khảo để kiểm soát và điều chỉnh nồng độ CaCl2 trong quá trình hoạt động liên tục của thiết bị tia cắt. Việc tính toán xấp xỉ tỉ lệ mole của CaCl2 và Alginate theo thông số tạo hạt định hướng cho việc điều chỉnh nồng độ CaCl2 trong thiết kế thiết bị vi bọc tia cắt hoạt động ở chế độ liên tục

tnttrang 

Journal.hcmuaf.edu.vn - Số 00/2020
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ