Hiệu quả sử dụng nước muối biển nuôi sinh khối artemia trong hệ thống biofloc
Nghiên cứu do nhóm tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân, Nguyễn Văn Hòa và Huỳnh Thanh Tới - Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ thực hiện.
Artemia là thức ăn tươi sống có giá trị dinh dưỡng cao và đã được sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản. Artemia giai đoạn trưởng thành chứa hàm lượng protein cao (50 - 60%), rất giàu acid béo thiết yếu, vitamin, kích dục tố và sắc tố, do đó chúng được chọn làm thức ăn nuôi vỗ tôm, cá bố mẹ. Thời gian gần đây, nuôi sinh khối Artemia bắt đầu được quan tâm nhiều do Artemia là thức ăn tốt cho ương nuôi cá, tôm nước ngọt và mặn. Tuy nhiên, việc sản xuất Artemia thường chỉ diễn ra ở nơi có độ mặn cao như ruộng muối và việc sản xuất còn mang tính mùa vụ (chỉ nuôi được trong mùa khô trong khi đa số con giống được sản xuất vào mùa mưa). Do vậy, muốn việc chủ động đối tượng này thì nuôi sinh khối trên bể kết hợp trong các trại sản xuất giống là rất cần thiết. Ở các trại giống tôm, cá xa biển, nước ót có độ mặn 80-90 ‰ được sử dụng phổ biến để nuôi sinh khối Artemia với giá rất cao (khoảng 400-450 ngàn/m3) làm cho chi phí con giống cũng tăng lên. Để hạn chế yếu điểm này trên cơ sở tận dụng đặc điểm của Artemia là loài rộng muối, có thể sống và tồn tại ở nhiều thủy vực muối khắc nghiệt có tính chất hóa học khác nhau, việc thay thế môi trường nuôi nước biển (nước ót) bằng muối biển cho nuôi sinh khối Artemia đã được thử nghiệm. Việc thay thế nước biển bằng nước muối không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của Artemia. Thêm vào đó, ứng dụng biofloc (một phức hợp gồm vi khuẩn dị dưỡng, nấm và tảo) trong nuôi trồng thủy sản gần đây với các nguồn carbon rẻ tiền nhằm giảm lượng thức ăn sử dụng, tăng cường sự thân thiện với môi trường có rất nhiều triển vọng cho việc áp dụng nuôi đại trà.
Artemia, một số nghiên cứu gần đây cho thấy vi khuẩn có thể được sử dụng như nguồn thức ăn thích hợp bổ sung cho Artemia nhờ tính ăn lọc không chọn lựa của Artemia, đặc biệt khi việc cung cấp tảo không đáp ứng đủ thức ăn cho quần thể Artemia và với tỷ lệ C:N trong bể nuôi tương đương từ 5-10 cho thấy lượng sinh khối tăng lên so với nuôi trong môi trường bình thường. Tuy vậy, việc ứng dụng này chưa được thử nghiệm ở quy mô lớn hơn để đánh giá hiệu quả và khả năng ứng dụng khi nuôi sinh khối đại trà cho nên rất cần được kiểm chứng trước khi đưa ra khuyến cáo cho người nuôi. Việc sử dụng nước muối và ứng dụng công nghệ biofloc trong nuôi sinh khối Artemia đạt hiệu quả cao sẽ góp phần đơn giản hóa quy trình nuôi, chủ động được nguồn thức ăn Artemia trong các trại giống từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn mà không phải phụ thuộc vào nguồn nước biển.
Trong thí nghiệm này, Artemia được nuôi bằng nước biển và nước muối với hai phương thức có và không có ứng dụng biofloc, kết hợp của hai nhân tố này cho ra tổ hợp gồm 4 nghiệm thức (NT)với ba lần lặp lại cho mỗi NT. Artemia được nuôi trong các bể nhựa 60 L chứa 40 L nước nuôi, mật độ 500 nauplii/L, độ mặn 30‰ và được theo dõi trong 20 ngày. Trong hai ngày đầu, Artemia được cho ăn tảo tươi Chaetoceros sau đó thay thế bằng thức ăn cho Artemia. Đối với các NT ứng dụng biofloc, rỉ đường được thêm vào bể nuôi từ ngày thứ 5 và tuần tự bổ sung sau đó theo hàm lượng TAN trong nước. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống, tăng trưởng tương tự giữa các NT sau ngày nuôi thứ 7. Sức sinh sản và sinh khối thu bị ảnh hưởng bởi ứng dụng biofloc và Artemia có khuynh hướng sinh trứng (79%) khi nuôi ở nước biển có biofloc. Các NT biofloc có lượng sinh khối thu cao hơn nuôi bình thường (3,52 g/L so với 3,24g/L; p<0,05) nhưng lại tương đương giữa nước biển và nước muối (3,30 g/L so với 3,45 g/L).Thêm vào đó, ứng dụng biofloc tiết kiệm được 20% nước thay và 14% thức ăn so với nuôi bình thường còn sử dụng nước muối làm giảm 46% giá thành sinh khối và tạo thế chủ động cho người nuôi.
lttsuong
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ - Tập 57, Số 1B (2021)