Doanh nghiệp đóng vai trò then chốt trong phát triển tài sản trí tuệ
Trong xu thế phát triển, hội nhập kinh tế như hiện nay, doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh dù ít hay nhiều đều liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Sau khi được bảo hộ, cam cao Phong được quảng bá rộng rãi hơn, được người tiêu dùng trong và ngoài nước biết đến.
Nền kinh tế tri thức đang dần hình thành và phát triển trên toàn thế giới cũng như trong nước. Đại diện của nó là các doanh nghiệp (DN). Quá trình thành lập, tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp cũng có thể xem là quá trình phát triển của tài sản trí tuệ (TSTT). Đó chính là quá trình áp dụng trí tưởng tượng, những đổi mới và sáng tạo trên một nền tri thức hiện hữu để giải quyết các vấn đề của sản xuất và kinh doanh. TSTT là con đẻ của trí tưởng tượng mà tri thức là bà đỡ của nó. Tri thức bao gồm những kiến thức, kinh nghiệm về khoa học, công nghệ của tự nhiên và xã hội ; quan trọng ở đây là những hiểu biết thông thạo về pháp luật sở hữu trí tuệ.
Công việc sản xuất kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp luôn được bao quanh bởi những sáng tạo thuộc sở hữu trí tuệ (SHTT), mà từ đó phát sinh mọi loại quyền theo pháp luật. TSTT bao gồm khoa học, công nghệ, nghệ thuật sáng tạo đã định dạng cho sự tồn tại, phát triển và tạo ra sự thịnh vượng cho các doanh nghiệp. Sự khao khát lợi nhuận của nhà doanh nghiệp luôn là động lực tạo ra sự đổi mới, sự sáng tạo – hay nói cách khác là tạo ra nguồn tài sản trí tuệ cho chính họ. Công nghệ và tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của xã hội.
Tài sản trí tuệ hỗ trợ cho các sản phẩm doanh nghiệp
TSTT của một doanh nghiệp thường gồm 3 phần : tiền vốn, tài sản hữu hình (nhà xưởng, trang thiết bị, …), tài sản vô hình. Tài sản vô hình chủ yếu là tài sản trí tuệ, uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp. Thể hiện của tài sản trí tuệ như: thương hiệu / nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, các giải pháp kỹ thuật và công nghệ tiềm ẩn bên trong sản phẩm. Tài sản trí tuệ được xem là thước đo khả năng tồn tại, phát triển và hiệu quả hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp.
Cụ thể, trong 5 năm qua, thông qua Chương trình phát triển tài sản trí tuệ, có hơn 500 sản phẩm nông nghiệp chủ lực, đặc thù của địa phương được hỗ trợ, trong đó: 21 sản phẩm được hỗ trợ từ chương trình của Trung ương do Cục SHTT chủ trì; 271 sản phẩm được hỗ trợ từ chương trình của các địa phương và hơn 200 sản phẩm được hỗ trợ từ các nguồn kinh phí khác và xã hội hóa (kinh phí được bố trí từ nguồn kinh phí OCOP, kinh phí cấp huyện, kinh phí của doanh nghiệp).
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi, mở đường cho việc tiếp cận các thị trường nước ngoài, góp phần khẳng định uy tín, giá trị thương hiệu của các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trên bình diện quốc tế, Cục SHTT đã và đang hỗ trợ bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản cho sản phẩm vải thiều Lục Ngạn, thanh long Bình Thuận và cà phê Buôn Ma Thuột.
Cục SHTT cũng hỗ trợ về chuyên môn, các địa phương chủ trì triển khai công tác hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm, tiêu biểu như: Chè Thái Nguyên (bảo hộ tại Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan), mỳ Chũ, Bắc Giang (bảo hộ tại Australia, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Campuchia)… Nhiều sản phẩm sau khi được bảo hộ sở hữu trí tuệ được người tiêu dùng biết đến rộng rãi, uy tín sản phẩm được nâng cao, giá trị sản phẩm gia tăng đáng kể (như cam Cao Phong Hòa Bình, nước mắm Phú Quốc, vải thiều Lục Ngạn, cam Hà Giang, bưởi da xanh Bến Tre…).
Thông qua hoạt động bảo hộ, phát triển tài sản trí tuệ đã kết nối được các hộ nông dân từ hoạt động sản xuất đơn lẻ thành mô hình sản xuất tập trung, chặt chẽ và chuyên canh sản phẩm, góp phần nâng cao chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tạo dụng được công cụ quản lý và các căn cứ khoa học để định hướng người tiêu dùng sử dụng sản phẩm bảo đảm nguồn gốc, chất lượng.
Vai trò của tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp
Các DN khi xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh, đã sử dụng các tài sản trí tuệ như nhãn hiệu, sáng chế kiểu dáng công nghiệp… làm đòn bẩy để tìm kiếm nguồn lực đầu tư vào DN. Hiện nay chúng ta đang sống trong thế giới mà công nghiệp dựa vào sức mạnh trí tuệ của con người là chủ yếu. SHTT trở thành tâm điểm của sự thành công hay thất bại trong kinh tế của các tập đoàn kinh tế hiện đại.
Tài sản trí tuệ tác động nhiều đến các hoạt động của DN như: Trong kinh doanh, sản xuất và nó gắn liền với các hoạt động thương mại; TSTT được sinh lợi thông qua việc góp vốn kinh doanh; mua, bán, trao đổi; tạo thế cạnh tranh; cho thuê; … Có nhiều thách thức trong hội nhập mà DN Việt Nam phải đối mặt: việc sử dụng quyền SHTT của người khác; Bảo vệ quyền SHTT khi xuất nhập khẩu hàng hoá; bị ngăn cản khi xuất/nhập khẩu bởi quyền SHTT.
Trong các TSTT thì kiểu dáng nhãn hiệu, công nghiệp, tên thương mại có tác động rõ nét nhất. Khi đến tay khách hàng những dấu hiệu này được khắc hoạ hình ảnh của hình ảnh/ dịch vụ của DN trong tiềm thức, cũng như tình cảm của khách hàng. Khi nhắc đến một nhãn hiệu hay kiểu dáng nào đó thì người tiêu dùng có thể nghĩ ngay đến sản phẩm, đặc trưng, lợi ích thậm chí cả nền văn hoá của DN sở hữu các đối tượng đó.
Nhãn hiệu chính là công cụ marketing đắc lực đối với DN. Với những định vị khác biệt của nhãn hiệu sẽ giúp DN tấn công vào thị trường mục tiêu. Bên cạnh đó nhãn hiệu còn hỗ trợ cho chính sách mở rộng, giúp cho quá trình phân phối sản phẩm dễ dàng hơn. Bởi một thực tế dễ nhận thấy, khách hàng khi mua hàng sẽ cảm thấy tin tưởng hơn khi mua những hàng hoá có tên gọi hay nhãn hiệu mà họ quen biết từ trước.
Tạo mọi thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ.
Nhãn hiệu tốt giúp doanh nghiệp tạo dựng vị thế, hình ảnh vững chắc của DN trên thị trường Nhằm thu hút khách hàng mới, và thu hút đầu tư cũng như thu hút nhân tài.… Nhãn hiệu cũng góp phần trong tăng lợi thế cạnh tranh về giá cho hàng hoá. Ngoài ra một nhãn hiệu đang có mặt trên thị trường cũng là một rào cản vô cùng quan trọng ngăn cản sự thâm nhập của các đối thụ cạnh tranh mới. Trong những lợi thế mà tài sản trí tuệ mang đến cho DN còn phải kể đến sự bảo hộ của Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền và pháp luật trong vấn đề hạn chế và chống lại các đối thủ cạnh tranh lấy cấp TSTT để làm giả (VD: giả nhãn hiệu) nhằm lợi dụng uy tín lớn của DN.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách giúp đỡ doanh nghiệp
Chính vì vậy, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học & Công nghệ) đã và đang có những nỗ lực trong công tác hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm góp phần thuận lợi hóa hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình sáng tạo, hình thành, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Các quy trình, thủ tục đăng ký sở hữu trí tuệ được xây dựng theo hướng ngày một đơn giản hóa, thân thiện với người sử dụng và doanh nghiệp. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật được xây dựng, nâng cao chất lượng xác lập quyền, tăng cường năng lực của hệ thống sở hữu trí tuệ nói chung, nhằm xử lý một cách nhanh nhất và chính xác nhất yêu cầu của người nộp đơn.
Cùng với đó, hệ thống tự động hóa công tác xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, nộp đơn trực tuyến đang được áp dụng tại Cục Sở hữu trí tuệ, giúp người nộp đơn được tiếp cận thông tin minh bạch, chính xác và thuận tiện. Việc gia nhập các hệ thống đăng ký đơn sở hữu công nghiệp quốc tế, ký kết và phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do với nhiều đối tác kinh tế với cấu phần sở hữu trí tuệ chiếm tỉ trọng lớn, đã và đang tạo ra các thuận lợi pháp lý tốt nhất về sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp.
Hiện nay, trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, hai văn bản quan trọng đã được ban hành gồm: Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 được phê duyệt theo Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2021 - 2030, cũng đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm, cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp trong định hướng hoạt động của toàn hệ thống sở hữu trí tuệ.
Một trong những giải pháp quan trọng được nêu trong Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia đến năm 2030 là triển khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển tài sản trí tuệ, đưa SMEs thành một nhóm đối tượng cụ thể và quan trọng trong Chiến lược.
Trong khi đó, Chương trình phát triển tài sản trí tuệ 2021 - 2030, được xây dựng với mục tiêu, quy mô lớn hơn, nhiều nội dung mới hơn, bảo đảm hỗ trợ đầy đủ các nội dung từ hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ, cho đến các nhiệm vụ bảo hộ sở hữu trí tuệ, quản lý, khai thác, phát triển tài sản trí tuệ và tạo dựng văn hóa sở hữu trí tuệ; thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đặt hàng, liên kết, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để khai thác, phát triển tài sản trí tuệ, rút ngắn quá trình ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Hoài Thương