SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ: Những vấn đề cần quan tâm

[16/09/2022 09:57]

Trong những năm qua, nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) đã có bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của các ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, nguồn nhân lực này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước. Điều này đòi hỏi cần có các giải pháp cụ thể như: đồng bộ về số lượng và chất lượng nhân lực KH&CN; nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của nhân lực KH&CN đối với sự phát triển của đất nước; tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế, cơ chế chính sách.

Thực trạng nhân lực KH&CN hiện nay

Sự phát triển nhân lực KH&CN

Về số lượng, kết quả tổng hợp điều tra của Bộ KH&CN năm 2019 cho biết, cả nước có 185.436 người tham gia các hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&PT), tăng gần 13.000 người (gần 7,4%) so với 2 năm trước đó. Theo chức năng làm việc, số lượng cán bộ nghiên cứu (những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên tham gia vào thoạt động NC&PT) chiếm 80,94%, trong khi cán bộ kỹ thuật chỉ có 6,99%, cán bộ hỗ trợ chiếm 12,07%. Số liệu cho thấy, sau 4 năm (2015-2019), số lượng nhân lực NC&PT của Việt Nam đã tăng đáng kể (từ 167.746 lên 185.436 người, tỷ lệ tăng 10,5%), cơ cấu tương đối ổn định với đội ngũ nghiên cứu viên chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 80%, kỹ thuật viên dao động trong khoảng 6-7%, còn lại là cán bộ hỗ trợ.

Về chất lượng, cán bộ nghiên cứu là những người có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên tham gia vào hoạt động NC&PT. Trong những năm qua, số lượng và trình độ của đội ngũ này đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học (tiến sỹ, thạc sỹ) trong tổng số cán bộ nghiên cứu đã tăng từ gần 50% (2015) lên gần 57,3% (2019). Trong đó, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao (tiến sỹ) tăng nhanh từ khoảng 11 lên 15%.

Đóng góp của nhân lực KH&CN đối với sự phát triển của đất nước

Nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã đóng góp vào xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, trực tiếp nhất là Dự thảo các Văn kiện Đại hội của Đảng; thực hiện các chương trình, nhiệm vụ khoa học lớn như: nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam; xây dựng bộ Địa chí quốc gia Việt Nam; phục vụ nghiên cứu các xu thế mới của thế giới như Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, xã hội 5.0…

Đối với khoa học cơ bản, nhân lực KH&CN đã đóng góp nhiều thành tựu thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố nghiên cứu quốc tế. Số lượng bài báo công bố quốc tế trên WoS, Scopus [3] của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 tăng trung bình 20%. Riêng trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.

Trong nông nghiệp, KH&CN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp nói chung; 38% sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân.

Lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, hoạt động KH&CN tiếp tục góp phần hỗ trợ phát triển sản phẩm của doanh nghiệp theo chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm, hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; giải quyết được bài toán thay thế nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực cơ khí chế tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ…

Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao rõ rệt chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội.

Trong quốc phòng và an ninh quốc gia, nhân lực KH&CN đã góp phần thiết kế, chế tạo mới và cải tiến nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng.

Hạn chế của nhân lực KH&CN

Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển của nhân lực KH&CN trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: i) nhân lực KH&CN mặc dù có tăng về số lượng và phát triển về chất lượng, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KTXH của đất nước; ii) nhận thức của nhân lực KH&CN về vị trí, vai trò, trách nhiệm đối với sự phát triển của đất nước còn chưa cao; iii) môi trường thể chế, cơ chế chính sách để phát triển nhân lực KH&CN chưa được hoàn thiện, chưa có cơ chế chính sách đột phá để nhân lực KH&CN trở thành nguồn lực cốt yếu của sự phát triển đất nước.

Một số giải pháp phát triển nhân lực KH&CN

Đồng bộ về chất lượng và số lượng.

Nâng cao nhận thức vai trò, trách nhiệm của nhân lực KH&CN đối với sự phát triển của đất nước.

Tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế, cơ chế chính sách.

Bài viết được tóm tắt từ bài viết của tác giả ThS Đỗ Văn Cương - Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ.

ntptuong

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 9 năm 2022 (trang 20-22)
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ