Giá trị của siêu âm Doppler động mạch tử cung dự báo tiền sản giật ở thai phụ 14-28 tuần tại Bệnh viện Đa Khoa Hoàn Mỹ Cửa Long
Nghiên cứu do nhóm tác giả Nguyễn Thị Kiều Anh -Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long, Dương Mỹ Linh, Bùi Quang Nghĩa, Dương Thị Khao Ry - Trường Đại học Y Dược Cần Thơ nghiên cứu Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của siêu âm Doppler động mạch tử cung ở thai phụ 14-28 tuần trong dự báo tiền sản giật.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp tầm soát tiền sản giật như là phương pháp tầm soát tiền sản giật dựa trên các yếu tố nguy cơ của mẹ bằng cách khai thác bệnh sử, yếu tố gia đình và thói quen sinh hoạt của thai phụ. Mô hình này dễ áp dụng ở các tuyến y tế cơ sở như trạm y tế, tuy nhiên hiệu quả không cao. Một số mô hình giúp tầm soát tiền sản giật khác là sử dụng các xét nghiệm sinh hóa như tỉ số SFLT-1/PLGF (/Fms hoà tan giống tyrosine kinase -1 yếu tố tăng trưởng nhau thai) hoặc là đo nồng độ các protein liên quan đến thai nghén như PAPP-A (Protein A huyết tương liên quan đến thai nghén), hemoglobin tự do thai, α1–Microglobulin. Hiện tại các cơ sở y tế đang triển khai ứng dụng mô hình phối hợp nhiều biến số như mô hình FMF (The Fetal Medicine Foundation – Hiệp hội Y khoa Thai nhi) với sự phối hợp rất nhiều yếu tố như tiền sử, bệnh sử, tuổi, khám lâm sàng, nhiều xét nghiệm sinh hóa phối hợp để dự đoán khả năng xảy ra bệnh lý tiền sản giật ở thai phụ với mục đích kiểm soát được bệnh lý nguy hiểm này [4]. Các phương pháp trên đều xoay quanh chủ yếu là các xét nghiệm đòi hỏi nhiều sự đầu tư lớn và chi phí lớn. Chúng ta nhận thấy là siêu âm Doppler hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã trởnên rất phổ biến và ứng dụng rộng rãi vào chuyên nghành sản phụ khoa. Siêu âm Doppler đo động mạch tử cung 2 bên của thai phụ vào ba tháng giữa thai kỳ cũng là một phương pháp giúp tiên lượng khả năng xảy ra tiền sản giật ở thai phụ, phương pháp này hiệu quả vàphù hợp với các cơ sở y tế chưa đủ điều kiện để ứng dụng các mô hình lớn trên thế giới. Mặc khác bệnh lý tiền sản giật về mặt mô học là tình trạng tăng trở kháng mạch máu hệ thống mà thể tích trong lòng mạch bình thường hoặc tương đối thấp và siêu âm Doppler động mạch tử cung 2 bên khảo sát mạch máu tử cung sẽ giúp khảo sát được gốc rễ của bệnh lý này. Câu hỏi đặt ra là siêu âm Dopplerđộng mạch tử cung ở ba tháng giữa thai kỳ thực sự có vai trò như thế nào trong việc dự báo tiền sản giật? Chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu với mục tiêu: Xác định tính giá trị của chỉ số PI, RI, S/D động mạch tử cung ở thai phụ 14-28 tuần trong dự báo tiền sản giật.
Đối tượng nghiên cứu: Thai phụ có tuổi thai từ 14-28 tuần, đến khám thai tại phòng khám Sản Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long từ tháng 5 năm 2021 đến tháng 7 năm 2022.
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu trên 187 thai phụ có tuổi thai từ 14-28 tuần, đến khám thai tại phòng khám Sản Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long từ tháng 5 năm 2021 đến tháng 7 năm 2022. Khám lâm sàng, đo Doppler động mạch tử cung 2 bên theo hướng dẫn của ISOUG năm 2018. Theo dõi thai kỳ và đánh giá kết quả tiền sản giật.
Kết quả Chỉ số PI của siêu âm Doppler động mạch tử cung dự báo tiền sản giật có độ nhạy 31,9%; độ đặc hiệu là 95%; giá trị tiên đoán dương là 68,1%; giá trị tiên đoán âm là 80,6%. Chỉ số RI của siêu âm Doppler động mạch tử cung dự báo tiền sản giật có độ nhạy: 89,3%; độ đặc hiệu là 79,2%; giá trị tiên đoán dương là 59,1%; giá trị tiên đoán âm là 95,6%. Giá trị của S/D động mạch tử cung có độ nhạy 76,5%; độ đặc hiệu là 84,2%; giá trị tiên đoán dương là 62%; giá trị tiên đoán âm là 91,4%.Giá trị của chỉ số PI trên siêu âm Doppler động mạch tử cung trong dự báo tiền sản giật: độ nhạy 31,9%, độ đặc hiệu là 95%, giá trị tiên đoán dương là 68,1%, giá trị tiên đoán âm là 80,6%. Giá trị của chỉ số RI trên siêu âm Doppler động mạch tử cung trong dự báo tiền sản giật: độ nhạy 89,3%, độ đặc hiệu là 79,2%, giá trị tiên đoán dương là 59,1%, giá trịtiên đoán âm là 95,6%. Giá trị của chỉ số S/D trên siêu âm Doppler động mạch tử cung trong dự báo tiền sản giật: độ nhạy 76,5%, độ đặc hiệu là 84,2%, giá trị tiên đoán dương là 62%, giá trị tiên đoán âm là 91,4%.
Tạp chí Y dược học Cần Thơ – số 59/2023