Nghiên cứu nồng độ asymmetric dimethylarginine huyết tương và mối liên quan với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối
Nghiên cứu nhằm xác định nồng độ Asymmetric Dimethylarginine(ADMA) huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC) chưa được điều trị lọc máu chu kỳ; đánh giá mối liên quan giữa nồng độ ADMA với một số yếu tố nguy cơ tim mạch (YTNCTM) ở các bệnh nhân này.
Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch (YTNCTM) là yếu tố liên quan với sự gia tăng khả năng bị mắc bệnh tim mạch. Các YTNCTM được thừa nhận từ lâu như hút thuốc lá, uống rượu, tăng huyết áp (THA), tăng cholesterol, tăng CRP máu, béo phì, phì đại thất trái và tăng fi brinogen máu. Khi một người mang một hoặc nhiều YTNCTM nào đó có nghĩa là có sự gia tăng khả năng mắc bệnh của người đó chứ không phải bắt buộc là chắc chắn sẽ bị bệnh. Thường thì các yếu tố nguy cơ hay đi kèm với nhau, thúc đẩy nhau phát triển và làm cho khả năng bị bệnh tăng theo cấp số nhân. Sự tồn tại đồng thời chức năng thận bị tổn thương với nhiều YTNCTM sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở các bệnh nhân này lên gấp nhiều lần. Sự ức chế và điều hòa tổng hợp oxít nitric (NO) bằng ADMA đã được mô tả cách đây hơn 20 năm. NO là một chất đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các tế bào nội mạc mạch máu. Vì vậy, ADMA được xem là một chất trung gian hoạt hóa cho sự rối loạn chức năng nội mạc. Tăng ADMA được xem là chỉ điểm độc lập cho nguy cơ và tử vong do tim mạch ở quần thể nói chung và ở bệnh nhân BTMGĐC.
Đối tượng nghiên cứu:
- 30 bệnh nhân BTMGĐC có mức lọc cầu thận < 15ml/ph/1,73 m2 chưa lọc máu được khám và điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Huế.
- 30 người lớn khỏe mạnh tham gia vào nhóm đối chứng.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích hấp thụ miễn dịch liên kết enzyme (ELISA) trên máy EvolisTMT win Plus. Các kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 19.0.
Kết quả nghiên cứu nồng độ trung bình ADMA huyết tương ở bệnh nhân BTMGĐC chưa lọc máu chu kỳ là 0,88 ± 0,27 µmol/L và ở người khỏe mạnh là 0,49 ± 0,13 µmol/L (sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,01). Nồng độ trung bình ADMA của nam và nữ không khác nhau (p>0,05). Tương quan giữa ADMA với BMI (r=-0,31, p<0,05). Tương quan giữa nồng độ ADMA với nồng độ Hb (r=-0,58, p<0,01) và Hct (r=-0,60, p<0,01). Tương quan giữa nồng độ ADMA với MLCT (r=-0,63, p<0,01).
Nồng độ trung bình ADMA huyết tương ở bệnh nhân BTMGĐC chưa lọc máu chu kỳ tăng cao có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ ADMA với BMI, với nồng độ Hb, với Hct và với MLCT.