Khảo sát đặc điểm mô bệnh học và biểu hiện phân tử của một số loại u khối mô mềm trên chó
Nghiên cứu do nhóm tác giả gồm Nguyễn Thành Luân, Đinh Diệu Linh (Viện Khoa học ứng dụng HUTECH, Đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh (HUTECH)) và Phạm Thị Hải Hà (Viện Kỹ thuật công nghệ cao NTT, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành) thực hiện.
Khối u mô mềm (soft-tissue sarcomas - STSs) có nguồn gốc từ các mô có nguồn gốc trung mô. Khả năng tái phát cục bộ sau khi phẫu thuật cắt bỏ là thách thức đặc trưng trong việc quản lý khối u tái phát, 40% con chó có khối u mức độ cao cũng có thể phát triển bệnh di căn, mặc dù đã kiểm soát thành công tại chỗ. Khối u mô mềm trên chó là một bệnh phức tạp và có nhiều điều chưa rõ ràng liên quan đến sinh học và cách xử lý lâm sàng chưa tối ưu.
Ung thư là nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong ở chó trưởng thành. Trong số nhiều loại ung thư trên chó, STS được định nghĩa là một quần thể không đồng nhất của các khối u trung mô với sự hình thành mô có nhiều sự biến đổi và chiếm tới 15% tổng số các khối u ở da và dưới da ở chó. Chó từ trung niên trở lên và chó giống lớn có xu hướng bị mắc các khối u này. Có tới 60% STS ở chó được tìm thấy trên các chi, trong khi các vị trí giải phẫu khác ít được biểu hiện hơn (thân 35% và đầu hoặc cổ 5%).
STS có thể phát sinh từ hầu hết mọi vị trí giải phẫu. Ở chó, chúng phát triển thường xuyên nhất ở vị trí dưới da và rất phổ biến, chiếm từ 9-15% của tất cả các khối u trên da hoặc dưới da. Tái phát cục bộ sau khi phẫu thuật cắt bỏ là lý do thông thường dẫn đến thất bại trong điều trị và quản lý STS, và có thể xảy ra ở 7-75% thú bệnh, tái phát liên tục có liên quan đến việc giảm khả năng sống sót chung của chó. Các công bố gần đây cho thấy kết quả điều trị của những con chó bị STS đã được cải thiện trong 30 năm qua, có thể là kết quả của việc thăm khám sớm hơn. Quan trọng hơn, các ca cắt bỏ không có kế hoạch, được thực hiện mà không có sự kiểm tra chẩn đoán trước có thể cảnh báo về khả năng ác tính có thể xảy ra, vẫn rất phổ biến.
Phân loại mô học ba bậc đã được phát triển cho các bệnh STS ở chó từ cuối những năm 1980 và được xem xét gần đây. STS cấp I (cấp độ thấp) là dạng thường gặp nhất và thường là những tổn thương phát triển chậm với tỷ lệ tái phát thấp nhất sau khi phẫu thuật cắt bỏ. Đối với cấp độ khối u cao hơn có liên quan đến hành vi xâm lấn sinh học cao hơn, do đó dẫn đến tỷ lệ tái phát cục bộ cao hơn. Có khoảng 7% các khối u cấp độ thấp tái phát sau khi cắt bỏ rìa so với 34% và 75% đối với các khối u cấp độ trung bình và cao cấp tương ứng.
Hình minh họa (Nguồn: Internet)
Hiện tại các xét nghiệm chẩn đoán tin cậy để xác định đúng kích thước vùng phẫu thuật là rất cần thiết cho một khối u cụ thể, vì vậy có thể dẫn đến sự không phù hợp giữa cách điều trị và bệnh. Các phương pháp phân tích trong nghiên cứu này bao gồm phân tích về đặc điểm hình thái mô bệnh học bằng ứng dụng phương pháp hóa mô và sự biểu hiện của một số loại marker phân tử bằng phương pháp hóa mô miễn dịch thường dùng trong chẩn đoán khối u. Bên cạnh đó, các kết quả ghi nhận được trong nghiên cứu sẽ được phân tích để có thể đề xuất những tiên lượng, định hướng điều trị phù hợp hỗ trợ cho việc tăng cường quản lý STS ở chó.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ chó có khối u ghi nhận được trong nghiên cứu là 1,5%. Kết quả phân tích đặc điểm hình thái mô bệnh học của khối u vành tai trên chó Chow Chow cho thấy sự tăng sinh mạnh của các tế bào hình thoi, có sự thay đổi về kích thước, hình dạng, sự cụm lại, và có sự xuất hiện của các bạch cầu xâm nhập xung quanh mạch máu. Tương tự, kết quả phân tích hóa mô khối u âm đạo trên chó French Bulldog cho thấy mật độ tế bào khối u bình thường, bao gồm các tế bào sợi trưởng thành, hình thành nhiều sợi collagen và không có sự tăng sinh mạnh và dữ dội của các tế bào. Đặc biệt, phân tích sự biểu hiện của một số loại marker phân tử từ các sinh thiết từ khối u mô bào ở vú chó Husky cho thấy các tế bào biểu hiện mạnh với vimentin (68,1%) có liên quan đến đặc điểm di căn ác tính. Các tế bào u di căn tên Husky có thể làm thay đổi các chỉ tiêu sinh hóa máu đi kèm với tình trạng nhiễm trùng huyết nên chó không đủ điều kiện để tiến hành phẫu thuật. Nhìn chung, việc kiểm tra mô học và đánh giá mức độ biểu hiện của các markers có thể giúp xác định tình trạng nguy hiểm của các khối u trên chó và cần được mở rộng đánh giá trong các liệu pháp can thiệp và hạn chế tái phát cục bộ sau khi phẫu thuật cắt bỏ.
Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, Tập XXIX Số 4 năm 2022