Đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh của các bệnh nhân gù cột sống đoạn bản lề ngực- thắt lưng sau chấn thương
Nghiên cứu do các tác giả Đỗ Mạnh Hùng, Vũ Văn Cường, Đỗ Anh Tuấn thực hiện.
Ảnh minh họa
Nghiên cứu nhằm mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh của các bệnh nhân gù cột sống đoạn bản lề ngực - thắt lưng sau chấn thương.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu những bệnh nhân được chẩn đoán gù cột sống đoạn bản lề ngực - thắt lưng sau chấn thương tại khoa phẫu thuật Cột sống bệnh viện Việt Đức trong thời gian từ tháng 05/2020 đến tháng 05/2021.
Gù cột sống là tình trạng biến dạng cong quá mức của cột sống vượt quá giới hạn cong sinh lý về phía trước gây ảnh hưởng lớn tới chất lượng sống, khả năng lao động và cả thẩm mỹ của bệnh nhân. Nguyên nhân có thể do chấn thương cột sống hoặc các bệnh lý về cột sống gây nên như viêm cột sống dính khớp, gù do thoái hóa, do u thân đốt sống… Chấn thương cột sống là tình trạng cột sống hoặc tủy sống bị tổn thương do các nguyên nhân chấn thương gây ra, trong đa số các nghiên cứu chấn thương cột sống chiếm khoảng 6% các trường hợp chấn thương chung và có thể để lại nhiều di chứng nặng nề, trong đó chấn thương cột sống đoạn bản lề ngực- thắt lưng chiếm khoảng 70%. Trong những năm gần đây, việc chẩn đoán và điều trị chấn thương cột sống nói chung và chấn thương đoạn bản lề ngực- thắt lưng nói riêng đã cải thiện và phổ cập hơn nhiều, hầu hết các trường hợp chấn thương cột sống nếu được điều trị kịp thời và đúng phương pháp đều có thể cho kết quả tích cực. Xong cũng có rất nhiều trường hợp bệnh nhan đến viện điều trị muộn. vận động và lao động quá sớm dẫn đến nhiều di chứng sau này như: mất vững cột sống, biến dạng gù, vẹo cột sống gây đau đớn ảnh hưởng đến vận động sinh hoạt hoặc có thể gây tổn thương thần kinh. Trong các di chứng nêu trên thì gù cột sống sau chấn thương là một tổn thương phổ biến hơn cả, vì vậy chúng tôi giới thiệu bài báo “Đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh của các bệnh nhân gù cột sống đoạn bản lề ngực- thắt lưng sau chấn thương”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, qua nghiên cứu 31 BN được chẩn đoán gù cột sống về đặc điểm lâm sàng độ tuổi trung bình của BN là 59,8±2,2 trong đó chủ yếu gặp nhóm tuổi trên 60 chiếm 52,9%. Tỷ lệ nam/nữ 9/25 chủ yếu là nữ giới chiếm 73,5%. Thời gian trung bình từ khi BN bị chấn thương đến khi vào viện phẫu thuật là 6,9±4,3 tháng, trong đó chủ yếu trong khoảng 3-6 tháng chiếm 52,9%. Có 17,7% trong tổng số BN biểu hiện triệu chứng chèn ép thần kinh mức độ AIS D. Mức độ đau trung bình trước phẫu thuật VAS là 7,47±0,86, chỉ số suy giảm chức năng cột sống trung bình trước mổ là 63,53%±2,8 trong đó chủ yếu thuộc nhóm mất chức năng nhiều (mức IV) chiếm 52,9%. Về đặc điểm chẩn đoán hình ảnh góc gù vùng trung bình là 34,4±1,3, góc gù thân đốt trung bình là 28,2±1,4. Trên MRI có 85,3% BN có hình ảnh phù thân đốt sống, có 20,6% BN có tổn thương dây chằng trên gai và liên gai sau, 23,5% có tình trạng chèn ép tủy. Bệnh chủ yếu gặp ở độ tuổi trên 60, chủ yếu là nữ. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là đau cột sống ngực-thắt lưng gây hạn chế vận động cột sống có thể kèm theo tổn thương thần kinh.
Tạp chí y học, Tập. 528 Số. 2(2023)