SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Đặc điểm Sarcopenia ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp

[07/05/2024 14:47]

Nghiên cứu thực hiện bởi Phạm Hoài Thu và các cộng sự tại Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội với mục tiêu là mô tả đặc điểm Sarcopenia và khảo sát một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp (VKDT) tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.

Sarcopenia (thiểu cơ) là bệnh lý có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, tăng gánh nặng chi phí y tế, tăng tỷ lệ tàn tật và tỷ lệ nhập viện ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (VKDT). Tỷ lệ mắc bệnh VKDT khoảng 0,5- 1% dân số ở một số nước Châu Âu và khoảng 0,17-0,3% các nước ở châu Á. Tình trạng viêm mạn tính gây nên tổn thương hủy khớp, hậu quả không những tăng tỷ lệ tàn tật mà còn ảnh hưởng tới tất cả các cơ quan khác như tim, phổi, mạch máu, mắt,...gây suy giảm sức khỏe trầm trọng. Sarcopenia ở bệnh nhân VKDT làm tăng tỷ lệ té ngã, gãy xương, loãng xương do bất động và tăng nguy cơ chuyển hóa tim mạch, hậu quả dẫn đến tăng tỷ lệ tử vong. 4 Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra Sarcopenia có liên quan đến tình trạng lão hóa của người cao tuổi, các bệnh lý mạn tính như loãng xương, VKDT, đái tháo đường,...

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 41 bệnh nhân VKDT điều trị ngoại trú từ tháng 1/2023 đến tháng 7/2023 tại Khoa khám bệnh - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, bệnh nhân có khả năng nghe hiểu và trả lời phỏng vấn, có khả năng tham gia vào các bài kiểm tra vận động và đồng ý tham gia nghiên cứu. Chẩn đoán Sarcopenia dựa vào tiêu chuẩn của Hiệp hội Sarcopenia Châu Á 2019 (AWGS 2019) và VKDT theo tiêu chuẩn EULAR 2010. Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0. Xác định tỷ lệ phần trăm, độ lệch chuẩn. So sánh sự khác biệt của các tỷ lệ phần trăm theo test khi bình phương với mức khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Kết quả cho thấy tỷ lệ của Sarcopenia ở bệnh nhân VKDT là 48,8%, trong đó Sarcopenia thể nặng là 12,2%. Tỷ lệ Sarcopenia ở nhóm bệnh nhân có mức độ hoạt động bệnh trung bình tính theo thang điểm DAS28-CRP chiếm tỷ lệ cao nhất 60%. Mức độ hoạt động bệnh, tình trạng dinh dưỡng, trình độ học vấn có mối liên hệ chặt chẽ với Sarcopenia với Sarcopenia Sarcopenia với p <0,05. Chưa thấy có mối liên quan giữa các yếu tố như tuổi, giới, BMI, nơi ở, tình trạng loãng xương, thuốc DMARDs với Sarcopenia ở bệnh nhân VKDT.

Tỷ lệ Sarcopenia ở bệnh nhân VKDT điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội cao, đặc biệt ở những bệnh nhân có mức độ hoạt động bệnh mạnh, có tình trạng suy dinh dưỡng và trình độ học vấn thấp. Chính vì thế, việc sàng lọc và phát hiện sớm Sarcopenia trên bệnh nhân VKDT là thực sự cần thiết, giúp nhanh chóng kiểm soát và đạt được hiệu quả điều trị một cách toàn diện.

Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 533 Số 1 (2023)
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ