Mối liên quan giữa giai đoạn bệnh mạc đái tháo đường và một số yếu tố nguy cơ
Bệnh võng mạc đái tháo đường (VMĐTĐ) là một trong những biến chứng hay gặp của bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), cũng là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở những người trong độ tuổi lao động. Mục tiêu nghiên cứu của tác giả Phạm Diệu Linh, Nguyễn Thị Lan Anh - Bệnh viện E và Hoàng Thị Thu Hà - Bệnh viện Mắt Trung ương nhằm đánh giá mối liên quan giữa giai đoạn bệnh VMĐTĐ cần chuyển chuyên khoa mắt trên ảnh chụp màu đáy mắt và một số yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ.
Bệnh đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến trên toàn thế giới hiện nay. Đái tháo đường ảnh hưởng đến 537 triệu người (tương đương 10,5% dân số thế giới) vào năm 2021, dự đoán con số này sẽ tăng lên khoảng 783 triệu người (12,2%) vào năm 2045. Theo Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) và Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ dân số Việt Nam trong độ tuổi 20 đến 79 mắc bệnh ĐTĐ chiếm 3,2% năm 2011 và tăng lên 6,1% vào năm 2021, nằm trong số những quốc gia có tốc độ mắc đái tháo đường cao nhất thế giới.
Đái tháo đường gây ra nhiều biến chứng ở các cơ quan khác nhau như tim mạch, thận, thần kinh, mắt… Trong đó, biến chứng về mắt phổ biến là bệnh VMĐTĐ, cũng là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở những người trong độ tuổi lao động. Theo quy luật 10:3:1 của ICO, khoảng 30% người mắc đái tháo đường có biểu hiện bệnh VMĐTĐ ở bất kỳ giai đoạn nào, trong đó 10% bị đe dọa thị lực. Bệnh VMĐTĐ thường diễn biến thầm lặng không triệu chứng đến giai đoạn tiến triển. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh VMĐTĐ sẽ gây tổn hại võng mạc và hoàng điểm, dẫn đến giảm thị lực không hồi phục, hơn nữa việc điều trị giai đoạn nặng rất tốn kém cho người bệnh mà hiệu quả không cao gây tổn thất rất lớn và tăng gánh nặng về kinh tế - xã hội. Do vậy việc khám sàng lọc bệnh võng mạc đái tháo đường là rất cần thiết, nhằm giảm gánh nặng điều trị cho các bác sĩ, giảm chi phí điều trị, đồng thời cải thiện thị lực cũng như chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Chụp ảnh màu đáy mắt là một trong các phương pháp sàng lọc bệnh VMĐTĐ giúp theo dõi tiến triển bệnh và quản lý người bệnh hiệu quả do có thể lưu trữ được hình ảnh đáy mắt. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc khám sàng lọc bệnh VMĐTĐ chưa được thực hiện thường quy, một phần do người bệnh chưa được tuyên truyền về tầm quan trọng của bệnh, người bệnh ở vùng sâu vùng xa khó tiếp cận hệ thống y tế, mặt khác do thiếu nhân lực y tế chuyên sâu về bệnh võng mạc.
Phương pháp nghiên cứu là mô tả cắt ngang trên 592 ảnh chụp màu đáy mắt của 296 mắt đã được chẩn đoán ĐTĐ típ 1 hoặc típ 2 tại Bệnh viện E từ tháng 7/2022 đến tháng 7/2023. Kết quả trong tổng số 296 mắt nghiên cứu, có 4 mắt không phân loại được giai đoạn bệnh VMĐTĐ (1,4%), tỷ lệ bệnh VMĐTĐ là 41,2%, tỷ lệ bệnh VMĐTĐ cần chuyển chuyên khoa mắt là 30,4%. Các yếu tố nguy cơ có mối liên quan với giai đoạn bệnh VMĐTĐ cần chuyển chuyên khoa mắt là thời gian phát hiện ĐTĐ trên 10 năm (p < 0,001), chỉ số glucose máu hiện tại > 10 mmol/L (p = 0,02), có bệnh tăng huyết áp (p = 0,004), có rối loạn mỡ máu (p = 0,004).
Bệnh võng mạc đái tháo đường là một trong những bệnh lý gây mù hàng đầu hiện nay trên thế giới có thể phòng tránh được. Tỷ lệ bệnh võng mạc đái tháo đường có xu hướng ngày càng gia tăng tương ứng với tốc độ phát triển hiện đại hóa. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh VMĐTĐ giai đoạn cần chuyển chuyên khoa mắt gồm có: thời gian mắc đái tháo đường > 10 năm, kiểm soát đường máu kém, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu. Trong đó, việc kiểm soát đường máu tại các bệnh viện đa khoa và tuyến cơ sở là rất quan trọng góp phần giảm tỷ lệ biến chứng nặng do bệnh đái tháo đường, đặc biệt là ở mắt.
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 174 Số 1 (2024)