Xây dựng mô hình tổn thương thận cấp trên chuột nhắt trắng bằng cisplatin
Nghiên cứu nhằm xác định đặc điểm chức năng thận ở nhóm chuột nhắt trắng đực với các liều can thiệp Cisplatin khác nhau và so sánh với nhóm chuột đối chứng.
Trước thực trạng tỷ lệ ngày càng tăng về nguy cơ tổn thương thận cấp và tiến triển đến suy thận cấp ở những bệnh nhân ung thư do được điều trị bằng Cisplatin, nhiều mô hình thử nghiệm đã và đang xuất hiện để nghiên cứu cơ chế gây bệnh và tìm ra các phương pháp điều trị tối ưu. Việc đề ra mô hình tổn thương thận do Cisplatin trên động vật gặm nhấm là cần thiết trong các nghiên cứu cơ bản về các cơ chế cũng như chiến lược điều trị tiềm năng của cả tổn thương thận cấp tính và mạn tính và có nhiều điểm tương đồng với độc tính trên thận của Cisplatin ở người. Cisplatin và các loại thuốc dựa trên bạch kim khác, chẳng hạn như carboplatin, ormaplatin và oxaliplatin đã được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiều bệnh ung thư ở người. Tuy nhiên, tác dụng phụ chủ yếu của thuốc là gây tổn thương thận, đây là mối lo ngại lớn về mặt lâm sàng, do đó cần phải điều chỉnh liều lượng. Để giúp hiểu rõ các cơ chế liên quan đến sự tiến triển của tổn thương thận do Cisplatin, mô hình trên động vật gặm nhấm đã được phát triển. Ngày nay, tình trạng tổn thương thận cấp (AKI: acute kidney injury) ngày càng trở nên trầm trọng hơn, nhưng tỉ lệ về nó chưa được biết rõ và sự khó khăn trong việc xác định tỉ lệ này thực sự đáng chú ý ở các nước đang phát triển . Ước tính có khoảng 13,3 triệu người mỗi năm, 85% trong số đó là dân số ở các nước đang phát triển, mặc dù vẫn chưa chứng minh được sự liên hệ trực tiếp giữa AKI và số ca tử vong gây nên nhưng AKI được cho là đã góp phần gây ra khoảng 1,7 triệu ca tử vong mỗi năm. Bên cạnh đó, ở những nước đang phát triển, nguyên nhân phổ biến gây nên AKI thường do cơ chế tổn thương thận cấp trước thận, trong đó có liên quan đến nhiễm độc các thuốc. Độc tính trên thận do Cisplatin gây ra trên thực nghiệm được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1971, độc tính trên thận là tác dụng phụ bất lợi chính của điều trị bằng Cisplatin. Do đó, làm hạn chế liều lượng và tỷ lệ tử vong có thể do lọc máu giai đoạn cuối chứ không phải do ung thư, với tình trạng tổn thương thận bắt đầu vài ngày sau khi điều trị bằng Cisplatin gây nên tình trạng nhiễm độc thận với sự gia tăng nồng độ creatinin, nitơ, ure, BUN.
Đối tượng nghiên cứu:
Thuốc thử nghiệm: hoạt chất Cisplatin (tên dược phẩm: Ebewe Cisplatin) 1 lọ 20mL chứa 10mg hoạt chất (IV), nhà sản xuất EBEWE Pharma G.m.b.H. Nig. KG, MondseestraBe 11, A- 4866 Unterach am Attersee, Austria. Hoạt chất được bảo quản nơi thoáng mát, tránh ánh nắng trực tiếp, trong thời hạn sử dụng.
Động vật nghiên cứu: các thử nghiệm được thực hiện trên chuột nhắt trắng đực, 6-7 tuần tuổi, dòng Swiss Albino thuần chủng (Mus musculus var. Albino), trọng lượng trung bình 28±2gam, được cung cấp từ Trường Đại học Cần Thơ. Chuột được để ổn định 1 tuần trong môi trường thí nghiệm (chu kì 12 giờ sáng - tối, 27±2°C và độ ẩm tương đối cứu, chết hoặc có biểu hiện rối loạn hành vi trong quá trình nghiên cứu, thất bại trong quá trình mô hình hoặc lấy mẫu xét nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập số liệu: Định lượng creatinin (đơn vị: mg/dL) và ure máu (đơn vị: mmol/L) được thực hiện theo hướng dẫn của bộ xét nghiệm sinh hóa Erba Mannheim của Đức trên máy phân tích sinh hóa bán tự động Erba của Đức và chẩn đoán mức độ tổn thương thận cấp theo tiêu chuẩn RIFLE. Nồng độ BUN máu (là xét nghiệm định lượng nitrogen trong máu có nguồn gốc từ urea do sự phân hủy chuyển đổi nồng độ BUN máu, từ đơn vị: mmol/L sang đơn vị: mg/dL bằng cách lấy nồng độ BUN máu, đơn vị: mmol/L chia cho 0,3571protein trong gan), đơn vị: mmol/L, được quy ước tương đương với nồng độ ure máu, đơn vị: mmol/L, công thức
Lô can thiệp liều 15mg/kg ghi nhận nồng độ creatinin và BUN máu cao hơn gấp 2,59 và 5,07 lần (p<0,05) 100% chuột bị tổn thương thận cấp; lô can thiệp liều 20mg/kg ghi nhận nồng độ creatinin và BUN máu cao hơn gấp 3,04 và 7,3 lần (p<0,05).
Mô hình tổn thương thận cấp trên chuột nhắt trắng đực bằng Cisplatin đã được xây dựng thành công ở liều 15mg/kg và 20mg/kg sau 72 giờ tiêm tĩnh mạch đuôi.
Tạp chí y dược học Cần Thơ, Số 71/2024