Đánh giá độc tính cấp, bán trường diễn của cao lỏng quyên tý thang gia quế chi, tạo giác thích trên chuột nhắt trắng
Nghiên cứu nhằm xác định độc tính cấp của cao lỏng Quyên tý thang gia Quế chi, Tạo giác thích trên chuột nhắt trắng. Xác định độc tính bán trường diễn của cao lỏng Quyên tý thang gia Quế chi, Tạo giác thích trên chuột nhắt trắng.
Hội chứng cổ vai cánh tay thường khởi phát bởi những cơn đau cấp tính, sau khi điều trị bệnh có thể khỏi hoàn toàn . Tuy nhiên, có gần 15-50% người bệnh tiếp tục tái phát cơn đau ở nhiều mức độ khác nhau với tần suất ngày càng thường xuyên hơn . Quyên tý thang là bài thuốc cổ phương được dùng điều trị các bệnh lý cơ xương khớp đặc biệt là hội chứng cổ vai cánh tay. Tuy nhiên, khi gia giảm bài thuốc cổ phương nhất thiết phải có nghiên cứu khẳng định được tính an toàn và hiệu quả trên động vật thực nghiệm. Lâm Thu Thủy (2022) đã thực hiện nghiên cứu chứng minh được bài thuốc QTTGQCTGT có tác dụng tăng cường giảm đau và kháng viêm trên thực nghiệm Để chứng minh về tính an toàn của bài thuốc này, chúng tôi tiến hành đánh giá về tính an toàn của bài thuốc.
Đối tượng nghiên cứu và động vật thực nghiệm
Đối tượng nghiên cứu: cao lỏng của bài thuốc Quyên tý thang gia Quế chi, Tạo giác thích (tỷ lệ 3:1) bao gồm Khương hoạt 09 g, Khương hoàng 08g, Đương quy 12g, Hoàng kỳ 12g, Phòng phong 12g, Xích thược 08g, Cam thảo 04g, Đại táo 12g, Quế chi 10g, Tạo giác thích 08g.
Động vật thực nghiệm: chuột nhắt trắng Mus musculus, không phân biệt giống, trưởng thành 5-6 tuần tuổi (cân nặng 20 ± 2 g), đạt tiêu chuẩn thí nghiệm, được cung cấp bởi Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế TP. Nha Trang. Chuột được nuôi dưỡng trong phòng nuôi động vật thí nghiệm đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thí nghiệm (ít nhất một tuần) trước khi tiến hành. Hàng ngày quan sát, theo dõi, ghi chép diễn biến kết quả thực nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu
Đánh giá độc tính cấp của cao lỏng Quyên tý thang gia Quế chi, Tạo giác thích theo phương pháp Litchfield – Wilcoxon theo thông tư hướng dẫn thử nghiệm của Bộ Y tế và Tổ chức y tế thế giới.
Chuột nhắt trắng Mus musculus trọng lượng 20 ± 2g được chia thành 6 lô, mỗi lô 10 con (gồm 5 con giống đực và 5 con giống cái, nuôi trong 2 lồng riêng), nhịn ăn 12 giờ trước khi uống thuốc, được uống nước đầy đủ. Cho từng lô chuột uống thuốc thử với liều từ liều cao nhất không gây chết tới liều thấp nhất gây chết 100% chuột (nếu có). Theo dõi số chuột chết trong 72 giờ đầu và tình trạng chung của chuột trong 14 ngày sau khi uống thuốc với các dấu hiệu bất thường (ăn uống, hoạt động thần kinh, đi lại, leo trèo, bài tiết ...), các dấu hiệu nhiễm độc (nôn, co giật, kích động…). Nếu chuột chết, mổ chuột đánh giá đại thể tổn thương các cơ quan. Xác định liều chết 50% (LD50) theo tỷ lệ chuột chết trong vòng 72 giờ đầu của từng lô sau khi uống thuốc.
Chưa xác định được LD50 trên chuột nhắt trắng của cao lỏng QTTGQCTGT khi cho chuột uống đến liều 225g/kg thể trọng. Cao lỏng QTTGQCTGT ở mức liều 21,4g/kg/ngày và 64,2g/kg/ngày chưa làm ảnh hưởng đến tình trạng chung, thể trọng chuột, chức năng tạo máu, chức năng và mô bệnh học của gan, thận chuột.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cao lỏng Quyên tý thang gia Quế chi, Tạo giác thích cho uống liều tối đa có thể dùng bằng đường uống 225 g/kg thể trọng không gây chết chuột cho nên không tìm thấy liều LD50. Cao lỏng Quyên tý thang gia Quế chi, Tạo giác thích với các mức liều 21,4g/kg/ngày và liều 64,2 g/kg/ngày dùng liên tục trong 90 ngày không ảnh hưởng đến tình trạng chung, trọng lượng, chức năng tạo mau, chức năng gan, chức năng thận và mô bệnh học của chuột thử nghiệm.
Tạp chí y dược học Cần Thơ, Số 71/2024