Sự thay đổi nồng độ AMH của bệnh nhân u nguyên bào nuôi có bảo tồn tử cung trong quá trình điều trị Methotrexate tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Tác giả Đỗ Tuấn Đạt thuộc Trường Đại học Y Hà Nội và các cộng sự thực hiện nghiên cứu với mục tiêu là đánh giá sự thay đổi nồng độ AMH của bệnh nhân u nguyên bào nuôi có bảo tồn tử cung trong quá trình điều trị Methotrexate tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội và một số yếu tố liên quan đến sự thay đổi nồng độ AMH.
Ảnh minh họa
U nguyên bào nuôi (UNBN) là một tập hợp các hình thái bệnh lý do tổn thương tân sản ác tính hoặc có tiềm năng ác tính của thành phần nguyên bào nuôi. Các hình thái bệnh lý này đều thứ phát sau thai nghén, trong đó thường gặp nhất là sau thai trứng. UNBN là một chẩn đoán lâm sàng dựa trên theo dõi nồng độ hCG sau một thai nghén bất kỳ và loại trừ những nguyên nhân khác liên quan đến tăng hCG (thai bình thường, sau sẩy thai, thai ngoài tử cung, các khối u không phải mô nguyên bào nuôi tăng tiết hCG).
U nguyên bào nuôi đáp ứng tốt với hóa trị ngay cả khi ở giai đoạn di căn xa. Hiện nay, với sự tiến bộ của các phương tiện chẩn đoán và sự phát triển của hóa chất, UNBN được phát hiện sớm hơn, tỷ lệ khỏi cũng lên tới 98% và tỷ lệ bảo tồn chức năng sinh sản cũng ngày càng tăng cao. Khả năng sinh sản là thiên chức của người phụ nữ và là một trong những yếu tố quyết định khả năng sinh sản là số lượng và chất lượng của các nang noãn ở buồng trứng - hay còn gọi là dự trữ buồng trứng. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị hóa trị liệu UNBN, các loại hóa chất có thể tác động lên buồng trứng, làm giảm dự trữ buồng trứng. Hormon kháng ống Muller (Anti - Mullerian Hormone - AMH) là một hormone được sản xuất bởi tế bào hạt của nang noãn ở buồng trứng bắt đầu từ khi còn là thai nhi và đã được chứng minh là một marker giúp phản ánh mức độ dự trữ buồng trứng của người phụ nữ do không phụ thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt cũng như không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như FSH. Đồng thời cũng giúp dự đoán khả năng sinh sản của người phụ nữ sau điều trị UNBN. Theo những nghiên cứu gần đây, mức độ giảm AMH khác nhau phụ thuộc vào từng loại hóa chất, thời gian điều trị, liều lượng thuốc và cá thể mỗi người phụ nữ. Những kết quả này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ chế gây độc buồng trứng của hóa chất và rất hữu ích giúp tư vấn khả năng sinh sản trong tương lai và xây dựng chiến lược bảo tồn buồng trứng phù hợp. Trong đó, phác đồ đơn hóa trị liệu được cho là ít ảnh hưởng đến sự thay đổi nồng độ AMH so với phác đồ đa hóa trị liệu.
Các tác giả đã nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 35 bệnh nhân được chẩn đoán u nguyên bào nuôi có bảo tồn tử cung điều trị đơn trị liệu Methotrexate tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 08/2021 đến tháng 08/2022. Các số liệu thu thập được sẽ được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả cho thấy nồng độ AMH giảm sau từng đợt điều trị hóa chất thứ nhất, thứ hai và thứ ba (2,87 xuống 1,16; 0,91 và 0,41 ng/ml) và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Mức độ giảm AMH sau từng đợt điều trị 1,2,3 lần lượt là 47,4 ± 24,98%, 65,9 ± 26,75% và 74,7 ± 25,3%. Một số yếu tố được xem xét liên quan đến sự thay đổi AMH như tuổi, nồng độ AMH ban đầu.
Qua nghiên cứu, các tác giả cho rằng nồng độ AMH giảm nhanh và giảm mạnh sau từng đợt điều trị hóa chất. Sự thay đổi nồng độ AMH trong quá trình điều trị hóa chất có liên quan với nồng độ AMH trước điều trị nhưng chưa thấy mối liên quan với tuổi, điểm FIGO, nồng độ βhCG trước điều trị.
Tạp chí Phụ sản, Tập 21, Số 2 (2023)