SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Vai trò cộng hưởng từ khuếch tán trong đánh giá độ mô học ung thư nội mạc tử cung trước phẫu thuật

[10/06/2024 09:38]

Nghiên cứu nhằm xác định vai trò của chụp cộng hưởng từ khuếch tán định lượng trong dự báo độ mô học của ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung trước phẫu thuật.

Đa phần chị em đều tỏ ra chủ quan đối với các nguyên nhân gây ra ung thư nội mạc tử cung. (Ảnh minh họa)

Ung thư nội mạc tử cung (UTNMTC) là một bệnh lý ung bướu phổ biến trên toàn thế giới, đứng hàng thứ 6 ở nữ giới, trong đó ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc là thể giải phẫu bệnh hay gặp và chiếm hơn 80% các trường hợp UTNMTC.1 Trong ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc, độ mô học là yếu tố tiên lượng quan  trọng, đặc  biệt đối  với  các  trường  hợp không  có đột  biến,  góp  phần  phân  loại  giai đoạn bệnh, định hướng phương pháp điều trị phù hợp cho người bệnh.

Theo hướng dẫn của WHO năm 2020 trong phân loại giải phẫu bệnh các ung thư phụ khoa sinh dục nữ, độ mô học của UTBMT dạng nội mạc được xác định dựa trên tỷ lệ thành phần đặc và hình thái nhân chia tế bào của khối u. Mặc dù, việc đánh giá độ mô học trước phẫu thuật của người mắc ung thư nội mạc tử cung tương đối dễ nhờ mẫu mô nạo sinh thiết buồng tử cung. Tuy nhiên, những mẫu mô trước phẫu thuật thường chỉ chứa một phần khối u và có thể không đại diện cho độ mô học toàn bộ u. Một số nghiên cứu đã báo cáo, có khoảng 15 - 19% số ca được chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung xếp độ 1 trước mổ và chuyển sang xếp độ 2 hoặc độ 3 sau phẫu thuật. Việc chẩn đoán chính xác độ mô học tại thời điểm trước phẫu thuật có thể làm thay đổi giai đoạn, cũng như phương pháp điều trị của bệnh, đặc biệt trong các trường hợp UTNMTC giai đoạn sớm.

Cộng hưởng từ là phương pháp chẩn đoán hình ảnh thường quy trong đánh giá UTNMTC trước điều trị. Một số nghiên cứu trong nước về cộng hưởng từ trong bệnh lý nội mạc tử cung đãđược tiến hành, tập trung chủ yếu vào phân biệt các tổn thương lành tính, ác tính, cũng như giá trị của CHT trong phân loại giai đoạn bệnh, cho thấy chuỗi xung T2W là một chuỗi xung có giá  trị  trong  chẩn đoán  giai đoạn  UTNMTC.6Cộng hưởng từ khuếch tán định lượng là một chuỗi xung cộng hưởng từ nâng cao, có giá trị trong chẩn đoán phân biệt các bệnh lý nội mạc tử cung lành tính và ác tính. Hơn nữa, cộng hưởng từ khuếch tán định lượng giúp phân loại độ mô học của UTBMT dạng nội mạc tử cung, đây là đề tài đang được nghiên cứu, hứa hẹn như một phương pháp chẩn đoán không xâm lấn, góp phần tiên lượng và chẩn đoán chính xác giai đoạn bệnh trước điều trị.

Các tác giả thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 57 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung từ 01/2022 đến 05/2023 tại Bệnh viện K. Tuổi mắc bệnh trung bình là 60,4. Mô học xếp độ 1, 2 và 3 có tỷ lệ lần lượt là 45,6%, 36,8% và 17,5%. Trị số trung bình trên ADC là 0,723 x 10-3 mm2/s. Trị số trung bình trên ADC của ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc xếp độ 1, độ 2 và độ 3 lần lượt là 0,738, 0,716 và 0,698 (x 10-3 mm2/s), p < 0,05. Sử dụng đường cong ROC trong chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc xếp độ 1 và độ 3 cho diện tích dưới đường cong AUC lần lượt là 0,791 và 0,823. Chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc độ 1 ở ngưỡng 0,7295 x 10-3 mm2/s, có độ nhạy 61,5% và độ đặc hiệu 90,3%. Chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc độ 3 ở ngưỡng 0,7185 x 10-3mm2/s, có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 59,6%.

Cộng hưởng từ khuếch tán định lượng là phương tiện chẩn đoán không xâm lấn, có vai trò nhất định trong dự báo độ mô học của ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung trước phẫu thuật.

Tạp chí Nghiên cứu Y học, Tập 176, Số 3 (2024)
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Lưu ý: Cổng thông tin Sở Khoa học và Công nghệ không chịu trách nhiệm với nội dung các đường link liên kết bên ngoài