SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Kết quả gần phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy theo hướng tiếp cận từ phía bên trái động mạch mạc treo tràng trên trước tiên

[22/07/2024 14:18]

Ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy và tiếp động mạch mạc treo tràng trên trước tiên từ phía bên trái trong mổ mở cắt khối tá tụy đã được chứng minh hiệu quả giúp người bệnh hồi phục sớm sau mổ, đạt tỷ lệ R0 cao hơn. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá kết hợp tiếp cận động mạch mạc treo tràng trên trước tiên trong phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy liệu có khả thi không.

Phẫu thuật cắt khối tá tụy bằng phương pháp mổ nội soi. (Ảnh minh họa)

Hiện nay, cắt khối tá tụy (CKTT) nạo vét hạch, lấy toàn bộ mạc treo tụy được coi là phương pháp tốt nhất, đưa lại lợi ích sống còn cao nhất cho ung thư vùng tá tràng đầu tụy giai đoạn có thể cắt bỏ. Cách tiếp cận động mạch mạc treo tràng trên (ĐMMTTT) trước tiên không những giúp kiểm soát sớm các mạch máu mà còn thuận lợi hơn nạo vét hạch, lấy toàn bộ mạc treo tụy. Ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy (PTNS CKTT) cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến và đưa lại những kết quả khả quan hơn mổ mở như nạo vét hạch nhiều hơn, giảm biến chứng nhiễm trùng vết mổ, viêm phổi, thời gian nằm viện ngắn hơn, mất máu ít hơn và thời gian sống bằng hoặc thậm chí nhiều hơn so với mổ mở.2 Tại Bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi đã ứng dụng kết hợp PTNS CKTT có tiếp cận ĐMMTTT trước tiên bên trái, lấy toàn bộ mạc treo tụy. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đánh giá kỹ về tai biến, biến chứng sau mổ.

Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp không đối chứng kết quả gần của 37 người bệnh ung thư biểu mô vùng tá tràng đầu tụy giai đoạn có thể cắt bỏ từ 1/2021 - 12/2023 ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy có tiếp cận động mạch mạc treo tràng trên trước từ phía bên trái.

Kết quả cho thấy: tai biến chứng trong mổ 10,8% (trong đó 5,4% tổn thương động mạch đại tràng giữa, 2,7% tổn thương tĩnh mạch cửa, 2,7% tổn thương tĩnh mạch mạc treo tràng trên), chuyển mổ mở 2,7%, rò tụy sau mổ 24,3% (2,7% rò tụy độ B), chảy máu sau mổ 10,8%, chậm lưu thông dạ dày 5,4%, rò dưỡng chấp 18,9%, phân độ theo Clavien - Dindo độ III trở lên 10,8%, không có người bệnh tử vong, nặng về. Thời gian nằm viện trung bình 14,3 ngày.

PTNS CKTT tiếp cận ĐMMTTT từ phía bên trái nói chung là khả thi, ít tai biến và biến chứng nặng, không có tử vong và nặng về. Mặc dù biến chứng nặng độ II trở lên thấp nhưng tỷ lệ biến chứng chung toàn bộ còn cao như rò tuỵ, rò dưỡng chấp, tiêu chảy nên phải xem xét kỹ chỉ định và thận trọng khi áp dụng. Cần có thêm nghiên cứu so sánh có đối chứng với nhóm khác để đưa ra được kết luận chính xác.

Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 178, Số 5 (2024)
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ