Một số yếu tố liên quan tới số lượng và chất lượng tế bào trứng của buồng trứng bò thu tại lò mổ
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của giống bò, điểm thể trạng (BCS - Body condition scores), khối lượng buồng trứng (BT) và kích thước nang trứng lớn nhất đến một số chỉ tiêu liên quan đến số lượng và chất lượng tế bào trứng (gồm tế bào trứng loại A, B là đạt và C, D là không đạt).
Buồng trứng thu được từ lò mổ là nguồn tế bào trứng sơ cấp dồi dào và dễ dàng thu được để sản xuất phôi quy mô lớn thông qua trưởng thành trong ống nghiệm (IVM) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) (Kouamo & cs., 2014). Sản xuất phôi bò thụ tinh trong ống nghiệm được sử dụng rộng rãi trên thế" giới và đã cho phép sản xuất phôi có tính di truyền cao từ tế" bào trứng thu được từ bò sống hoặc từ buồng trứng bò từ lò mổ’ nhằm thúc đẩy sự phát triển của các loài cụ thể (Blanco & cs., 2011). Phương pháp này bao gồm một số bước: IVM tế bào trứng, IVF tế bào trứng với tinh trùng có năng lực và nuôi cấy phôi trong ống nghiệm cho đến giai đoạn phôi nang. Bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất trong tạo phôi in vitro là lựa chọn tế" bào trứng khả thi cho IVM. Số nang trứng, số lượng và chất lượng tế bào trứng của bò giống địa phương thường kém và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như giống, tuổi, trọng lượng, BCS, mùa và tình trạng sinh lý, dinh dưỡng và bệnh lý của con cái đã được báo cáo là nguyên nhân của sự khác biệt kết quả (Kouamo & cs., 2014; 2016).
Buồng trứng bò được thu tại các lò mổ địa phương gồm các lò mổ Hải Bối - Đông Anh, Kim Lan - Gia Lâm, Thọ An - Đan Phượng, Trị Thủy - Phú Xuyên - Hà Nội; La Tiến - Phù Cừ - Hưng Yên. Mẫu buồng trứng được cắt trực tiếp trên thân thịt của bò ngay sau khi mổ, tách buồng trứng ra khỏi các tổ’ chức mô liên kết, phân loại buồng trứng theo giống bò và được bảo quản trong ống fancol có chứa dung dịch Phosphate Buffered Saline (PBS). Sau đó, buồng trứng được chuyển về phòng thí nghiệm trong vòng 0-3 giờ.
Kết quả cho thấy giống bò khác nhau không ảnh hưởng đến số nang trứng trung bình trên bề mặt BT, số tế bào trứng thu được, khối lượng BT nhưng ảnh hưởng đến khối lượng nang trứng trung bình/ BT. Cụ thể khối lượng nang trứng trung bình/BT ở bò Vàng (6,11) cao hơn ở bò Sữa (2,66; P <0,05). BCS không ảnh hưởng đến kích thước, khối lượng nang trứng trung bình và tổng số nang trứng trung bình thu được. Khối lượng BT, kích thước nang trứng lớn nhất có ảnh hưởng đến tổng số nang trứng và số tế bào trứng thu được. Buồng trứng có khối lượng 5-10g có tổng số nang trứng trung bình, tổng số tế bào trứng A, B và C, D thu được chiếm số lượng cao nhất (11,21 nang; 3,90 và 6,51 tế bào trứng). Tương tự, BT có kích thước nang trứng lớn nhất nằm trong khoảng 3-7mm thu được tổng số tế bào trứng A, B; C, D trung bình cao nhất lần lượt là 4,06 và 7,09 tế bào (P <0,005), đây là tiêu chí quan trọng để lựa chọn buồng trứng làm nguyên liệu tạo phôi bò in vitro.
Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam - số 9 năm 2023