Việc giải mã 200 bản thảo tiếng Ả Rập đã mở ra cho chúng ta cánh cửa nhìn vào một trong những nền văn minh rực rỡ nhất trong lịch sử nhân loại.

Bản đồ châu Âu được tô màu bằng tay trong Katib Cele-bi, Kitab-i CiHAN-NUMA (The Cosmorama), do Ibrahim Muteferrika in, Istanbul, năm 1145 AH (năm 1732 CN).
Những tài liệu quý giá
Apollonius (262–190 TCN) là một trong những nhà toán học Hy Lạp lừng lẫy, được xưng tụng là “Nhà hình học vĩ đại”, nổi tiếng với cuốn sách có tầm ảnh hưởng lớn “The Conics of Apollonius”. Tác phẩm ra đời khoảng năm 200 TCN, là một trong những công trình uyên bác nhất về toán học Hy Lạp cổ đại, đề cập tới các lý thuyết hình elip, parabol và hypebol. Vốn bộ sách này gồm tám quyển, song các học giả châu Âu chỉ biết tới bốn quyển đầu trong thời Phục hưng.
May mắn thay, hai cuốn sách thất lạc và cực kỳ quan trọng – quyển 5 và quyển 7 – vẫn tồn tại trong một bản thảo tiếng Ả Rập được lưu trữ cẩn thận trong Thư viện Đại học Leiden (Hà Lan). Chúng nằm trong bộ sưu tập gần 200 bản thảo của nhà toán học và Đông phương học người Hà Lan Jacob Golius (1596-1667), được ông thu thập trong nhiều chuyến hải trình tới Trung Đông.
Các nhà khoa học tại Đại học Leiden đã giải mã được các văn bản này và xuất bản trong tập sách với tiêu đề “Prophets, Poets and Scholars”. 50 chương sách đề cập tới lịch sử các mối quan hệ của Hà Lan với phương Đông, nhất là Trung Đông và Bắc Phi, nhấn mạnh các cuộc tiếp xúc với bản thảo Ả Rập diễn ra ở đầu thế kỷ 17.
Trong thế kỷ này, người Hà Lan đầu tiên là Thomas Erpenius đã đạt được vị thế nổi bật trong lĩnh vực nghiên cứu Đông phương học. Nhưng, người Hà Lan đầu tiên từng đặt chân lên vùng Trung Đông hoặc Bắc Phi là Jacobus Golius. Trong các chuyến du hành, ông đã mua hơn 200 bản thảo ở vùng Trung Đông cho Đại học Leiden.
Các bản thảo của Golius thu hút được sự chú ý của nhiều học giả. Nổi bật nhất trong đó là bản thảo tiếng Ả Rập từ thế kỷ 11 đã dịch lại các tác phẩm toán học thất lạc của Apollonius. Bản thảo này không chỉ chính xác về mặt khoa học mà còn được trang trí với các hình ảnh sặc sỡ và được viết theo lối thư pháp Ả Rập điêu luyện.
Bên cạnh đó, bốn bản thảo tiếng Ả Rập khác cho chúng ta biết một số khía cạnh của truyền thống khoa học thịnh hành trong thời hoàng kim của nền văn minh Ả Rập và Hồi giáo.
Ví dụ, một hình vẽ trong bản thảo thế kỷ 11 được cho là của Mu’taman ibn Hud – nhà toán học và Vua Saragossa từ năm 1081 đến năm 1085 – thể hiện các nhà khoa học Hồi giáo giải được một câu đố hình học Hy Lạp cổ đại từ gần nửa thiên niên kỷ trước khi các học giả châu Âu tìm ra lời giải cho nó. Nghiên cứu cho thấy lời giải của các nhà khoa học Hồi giáo nằm trong một bộ bách khoa toàn thư toán học đồ sộ “Book of Perfections”, mà chỉ một phần nhỏ được lưu giữ.
Một bản thảo tiếng Ả Rập khác từ thế kỷ 14 cho thấy học giả Hồi giáo xác định tọa độ địa lý của ít nhất 160 thành phố với độ chính xác cao và biên độ sai số tối thiểu. “Tên của các thành phố được ghi bằng màu đen còn các số ghi màu đỏ là kinh độ tính bằng độ và phút, cùng vĩ độ ghi bằng độ và phút. Các số viết theo hệ thống chữ cái abjad được hầu hết các nhà thiên văn học sử dụng, trong đó một giá trị số được gán cho một chữ cái. Cột đầu tiên bắt đầu bằng các địa phương ở hai tỉnh Tây và Đông Azerbaijan ở Iran hiện đại.”
Trong quá trình nghiên cứu và phân tích văn bản cổ, các nhà khoa học phát hiện các tác giả thường thêm thắt trí tưởng tượng trong lời kể của mình. “Tại đó phụ nữ có thể mọc trên cây, con người mọc ra tay ở chỗ chúng ta có tai, và có thể bắt gặp những hòn đảo chỉ độc có phụ nữ hay đàn ông sinh sống. Tất cả những điều này để lại dấu ấn trong di sản văn bản Trung Đông, và cũng tồn tại trong truyền thống tranh ảnh đi kèm”.
Chúng ta phải kể đến Ajaib al-Makhluqat wa Khraib al-Mawjudat (Kỳ quan sáng tạo và tính hiếm của các sinh vật còn tồn tại) của Ibn Muhammad al-Qazwini – bách khoa toàn thư đề cập tới những sinh vật nhỏ bé như bọ chét, giun, chấy rận cho đến các loài động vật kỳ lạ mang màu sắc bí ẩn và truyền thuyết.
Một số sinh vật chỉ có thể là sản phẩm tưởng tượng như con rùa bất động mọc lên um tùm cây cối giống như hòn đảo, là nơi các thủy thủ neo tàu – gợi người đọc nhớ tới sinh vật xuất hiện trong tác phẩm nổi tiếng Những chuyến du hành của thủy thủ Sinbad.
Tuy nhiên, đôi khi người đọc phải thoát khỏi những ý niệm cố hữu để nắm bắt hình thái chân thật mà văn bản mô tả. Một trường hợp như vậy là sinh vật biển được Qazwini miêu tả: khuôn mặt của nó giống mặt người, nó có ria trắng, cơ thể giống ếch, tóc giống như lông đầu bò và kích thước tương tự con bê. Phải suy ngẫm lâu chúng ta mới nhận ra đây là mô tả hoàn toàn đầy đủ về con hải cẩu.

Ba loài mực nang và các loài động vật dưới biển, trên cạn khác. Trích từ bản thảo tiếng Ả Rập Sách thảo mộc của Dioscurides. Nguồn: Thư viện Đại học Leiden
Mở ra cơ hội hợp tác
Mostafa Zahri, Giáo sư phân tích số và mô hình toán học tại Đại học Sharjah, cho biết “các bản thảo tiếng Ả Rập trong những thư viện phương Tây như Thư viện Đại học Leiden là kho lưu trữ vô giá về những thành tựu trí tuệ của nền văn minh Hồi giáo, nhất là trong toán học và hình học”.
Song, dù chứa đựng khối lượng kiến thức phong phú như vậy, nhiều bản thảo vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Chỉ có sự hợp tác, số hóa và mở rộng quyền tiếp cận cho các học giả phương Tây và Ả Rập thì chúng ta mới có thể khai thác toàn bộ giá trị lịch sử và toán học của chúng, giáo sư Zahri cho biết.
Wilfred de Graaf, Điều phối viên giáo dục tại Đại học Utrecht, cũng đồng tình với ý kiến này. Ông nhấn mạnh rằng chỉ một phần nhỏ các bộ sưu tập bản thảo tiếng Ả Rập và Hồi giáo được nghiên cứu. Ông cho rằng các nghiên cứu trong lĩnh vực này hiếm hoi như vậy là do không có nhiều học giả phương Tây thông thạo các ngôn ngữ phương Đông như tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ - ngôn ngữ viết thông dụng của hầu hết các bản thảo Hồi giáo.
Vào đầu năm nay, một hội thảo tại Đại học Sharjah ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã được tổ chức để hướng dẫn người tham gia phương pháp viết số theo hệ thống số abjad mà các học giả Ả Rập và Hồi giáo sử dụng. Trong đó, chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái Ả Rập gồm 28 chữ cái “alif” biểu thị 1 và chữ cái thứ hai “baa” biểu thị 2 đến 9. Các chữ cái khác biểu thị chín khoảng cách hàng chục và sau đó là hàng trăm, kết thúc bằng 1000.
Bài đăng KH&PT số 1331 (số 7/2025)