Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống gắn với công tác bảo vệ môi trường
Văn hóa là một khái niệm rộng và mang nhiều hàm ý, nên có nhiều cách hiểu khác nhau, phụ thuộc vào bối cảnh và đối tượng cụ thể. Theo nhiều tài liệu thì hiện nay có khoảng gần 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Có người coi văn hóa chính là nếp sống hay lối sống đã trở thành truyền thống của một gia đình, một cộng đồng, một tộc người, một vùng đất, một dân tộc, bao gồm phong tục, tập quán, truyền thống, niềm tin, nghệ thuật, âm nhạc, ngôn ngữ, hệ giá trị và chuẩn mực xã hội đặc trưng. Nó xác lập các chuẩn mực và thang giá trị, từ đó điều chỉnh hành vi, định hình lối sống hàng ngày của các thành viên, làm nên “gương mặt” của một cộng đồng. Có người lại coi văn hóa là mọi thứ con người làm ra đối lập với tự nhiên; số khác thì cho rằng văn hóa là cung cách ứng xử của một con người, một gia đình, một cộng đồng với đồng loại và với giới tự nhiên.

Việt Nam là quốc gia đa dạng về văn hóa với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có những nét văn hóa đặc trưng riêng, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hiện đại hóa, vấn đề bảo tồn văn hóa bản địa trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Các yếu tố văn hóa ngoại lai, sự phát triển như vũ bão của công nghệ và lối sống hiện đại đang dần thay thế những giá trị văn hóa truyền thống, khiến nhiều di sản văn hóa (DSVH) có nguy cơ bị mai một.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn về môi trường, suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và hoạt động sản xuất của người dân. Hơn nữa, sự suy thoái tài nguyên sinh vật (rừng, đa dạng sinh học); suy thoái và ô nhiễm tài nguyên đất, nước, không khí đang là mối đe dọa ở hiện tại cũng như trong tương lai cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, việc kết hợp bảo tồn, đề cao văn hóa để bảo vệ môi trường (BVMT) không chỉ góp phần duy trì bản sắc dân tộc mà còn có vai trò quyết định trong việc hỗ trợ sự phát triển bền vững. BVMT chính là để cứu lấy con người và thiên nhiên quanh ta; BVMT chính là bảo vệ cho tương lai của nòi giống Việt, của văn hóa Việt. Để đạt được điều này, cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng, sự hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức quốc tế, cùng với đó là đẩy mạnh phát triển các mô hình sinh kế bền vững, chương trình giáo dục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn, đề cao vai trò của văn hóa trong BVMT.
1. Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống gắn với công tác bảo vệ môi trường
1.1. Tính pháp lý của việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống trong bảo vệ môi trường
Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm sâu sắc, đầy đủ hơn đến công tác bảo tồn và phát triển văn hóa, đặc biệt là đề cao vai trò của văn hóa trong BVMT.
1.2. Môi trường và văn hóa
Quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất của con người trước hết là để nuôi sống bản thân, ngày qua ngày tạo nên những phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất lại quy định lối sống, lối ứng xử của một cá nhân, một gia đình, một cộng đồng với đồng loại và với thiên nhiên, tức là tạo thành văn hóa của xã hội ấy. Có thể nói, môi trường quy định sự hình thành, phát triển của mỗi một nền văn hóa và ngược lại, văn hóa có những tác động nhất định đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Ngay trong một nước, một vùng quê đều có nhiều nền văn hóa, nhiều nét văn hóa khác nhau, nghĩa là có rất nhiều những hành vi có tác động đến môi trường khác nhau.
1.3. Bảo tồn văn hóa để bảo vệ môi trường bền vững - Xu hướng tất yếu
Hiện nay, công tác BVMT đang đứng trước nhiều thách thức như: (i) Yêu cầu BVMT với lợi ích kinh tế trước mắt trong đầu tư phát triển; (ii) Tổ chức và năng lực quản lý môi trường còn nhiều bất cập trước những đòi hỏi phải nhanh chóng đưa công tác quản lý môi trường vào nề nếp; (iii) Cơ sở hạ tầng, kỹ thuật BVMT lạc hậu với khối lượng chất thải đang ngày càng tăng lên, các hệ sinh thái bị suy thoái có nguy cơ mở rộng và mất dần khả năng phục hồi; (iv) Nhu cầu ngày càng cao về nguồn vốn cho BVMT với khả năng có hạn của ngân sách nhà nước, sự đầu tư của doanh nghiệp và người dân cho công tác BVMT còn ở mức rất thấp.
Trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Nếu trong xã hội, văn hóa (cùng với luật pháp) điều chỉnh hành vi giúp con người sống và cư xử tốt đẹp theo đúng bản sắc văn hóa của dân tộc, hướng con người đến những giá trị đích thực của Chân - Thiện - Mỹ, thì trong lĩnh vực môi trường, văn hóa hướng con người có nhận thức đúng, đầy đủ và toàn diện hơn về vai trò, trách nhiệm của bản thân mỗi người, mỗi cộng đồng trong sự nghiệp BVMT.
Tri thức bản địa là những kiến thức địa phương, gần như là duy nhất và đặc trưng cho một nền văn hóa nào đó (UNESCO, 2010). Tri thức bản địa đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển của các cộng đồng dân cư, của mỗi địa phương. Do đó, việc để mất đi tri thức bản địa không chỉ đơn thuần là bỏ phí một nguồn lực để phát triển mà còn là việc bỏ qua sự tham gia của cộng đồng dân cư vào quá trình phát triển (Paul Mundy, 1993). Trong quản lý tài nguyên, BVMT, làm giàu và sử dụng tri thức bản địa tại địa phương sẽ tạo ra cơ chế trao quyền, hỗ trợ người dân khai thác, sử dụng, bảo vệ hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững. Đây là nền tảng vững chắc cho những quyết định liên quan tới an ninh lương thực, sinh kế người dân; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa; khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý; BVMT sinh thái, hướng tới PTBV.
Như vậy, bảo tồn và phát huy văn hóa bản địa gắn với công tác BVMT là xu hướng tất yếu, nhằm đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên.
1.4. Một số mô hình tiêu biểu về lồng ghép yếu tố văn hóa trong các hoạt động BVMT
Hiện nay việc lồng ghép yếu tố văn hóa, tri thức bản địa, tín ngưỡng trong các hoạt động BVMT đã và đang được quan tâm, thúc đẩy. Một số hoạt động, mô hình tiêu biểu như:
- Lồng ghép việc bảo tồn văn hóa bản địa với phát triển du lịch và BVMT.
- Lồng ghép nội dung BVMT trong các luật tục, quy định của cộng đồng.
- Lồng ghép các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng để bảo tồn, phát huy văn hóa trong BVMT.
1.5. Khó khăn, vướng mắc trong việc bảo tồn, phát huy văn hóa gắn với công tác BVMT
Khó khăn, vướng mắc trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa gắn với BVMT nông thôn hiện nay xuất phát chủ yếu từ mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển. Bảo tồn mang lại lợi ích to lớn về văn hóa và về lâu dài là lợi ích kinh tế, giữ gìn được các nét đặc trưng của phong tục, tập quán địa phương, môi trường, cảnh quan chung và quan trọng nhất là văn hóa cốt yếu của mỗi vùng, làm bệ đỡ cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuy nhiên, nếu chỉ bảo tồn mà không phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân, thì theo thời gian, sẽ dễ làm cho các giá trị văn hóa tưởng như vĩnh hằng bị xói mòn, biến dạng, vì vậy, ưu tiên hàng đầu là phải kiến tạo nền văn hóa sinh kế, không gian văn hóa cho những điều tốt đẹp tồn tại và phát huy.
Ngược lại, nếu chỉ phát triển mà không quan tâm đúng mức đến bảo tồn, thì do tính chất nhạy cảm và dễ bị tổn thương của văn hóa bản địa, một quá trình phát triển nào đó sẽ dễ dẫn đến tự phát, ồ ạt, thiếu kiểm soát, bị thương mại hóa quá mức, làm méo mó, mất bản sắc, phá vỡ tính nguyên vẹn của di sản, mai một truyền thống và lối sống địa phương, gia tăng chia rẽ cộng đồng, xung đột lợi ích, mâu thuẫn về quyền tiếp cận tài nguyên.
Như vậy, việc hài hòa, cân bằng lợi ích giữa bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa gắn với BVMT nông thôn vẫn đang là một bài toán khó, rất cần sự can thiệp, hỗ trợ từ cơ chế, chính sách của Nhà nước để tạo động lực, nguồn lực thực sự cho các cộng đồng địa phương.
2. Kết luận
Con người cá nhân, con người xã hội và tự nhiên vốn là một hệ thống thống nhất, ở đó con người với các hoạt động sống, sản xuất đã tạo ra những đặc trưng xã hội cụ thể cho mỗi vùng miền, giúp họ sống hòa nhập, gắn kết với tự nhiên. Do đó, bảo tồn văn hóa bản địa là con đường tất yếu để con người hay các cộng đồng sống hòa hợp, dung hòa với môi trường sống của chính mình, là cách để BVMT bền vững. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các tri thức bản địa vẫn còn nguyên giá trị quý báu, việc sử dụng kết hợp các tri thức bản địa với kiến thức khoa học và công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra hiệu quả tổng hợp, giúp Nhà nước vừa đạt được mục tiêu BVMT, phát triển kinh tế, vừa giữ gìn, phát huy được những nét văn hóa đặc sắc của 54 dân tộc anh em. Để bảo tồn và phát huy giá trị DSVH bản địa gắn với BVMT nông thôn, cần thiết phải cụ thể hóa chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cấp địa phương, đồng thời coi đây là vấn đề quan trọng, cấp thiết liên quan đến sự phát triển của các “vùng văn hóa bản địa”. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, đòi hỏi cần có sự nỗ lực từ nhiều phía vào quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường của cộng đồng, trong đó khung pháp lý có vai trò mở đường và kiến tạo nên những giá trị mới.
Tạp chí môi trường chuyên đề tiếng Việt số 3 (2024)