Giải thưởng chất lượng - Công cụ nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội tại nhiều quốc gia
Từ ngày 19–23/11/2012 tại Singapore, Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) đã tổ chức Hội nghị tập huấn chuyên đề về các mô hình kinh doanh xuất sắc (Business Excellence Model) và giải thưởng chất lượng (GTCL) với sự tham gia của các đại biểu từ 20 nước và nền kinh tế thành viên của APO gồm: Bangladesh, Campuchia, Đài Loan, Fiji, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Nhật, Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Nepal, Pakistan, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam.
Các mô hình GTCL đều bắt nguồn từ
hai mô hình chính: Giải thưởng Malcolm Baldrige của Mỹ năm 1987 và mô hình Quản
trị Chất lượng của Châu Âu - EFQM Excellence Model (European Foundation for
Quality Management) năm 1991. Ngoại trừ Campuchia là thành viên mới nhất của
APO vừa được kết nạp vào năm 2004 chưa có mô hình GTCL, đa số các nước thành
viên đều có những hoạt động và mô hình giải thưởng ở tầm quốc gia.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã chia sẻ
kinh nghiệm khi triển khai mô hình GTCL. Hầu hết các GTCL quốc gia đều đặt dưới
sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của các bộ ngành của Chính phủ như Bộ Thương
mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học, v.v… Mục tiêu của các Giải thưởng là hướng
các tổ chức vào lộ trình tiến tới sự hoàn hảo (A journey to excellence) thay vì
chỉ nhắm vào mục đích đoạt giải, được lãnh đạo Nhà nước hoặc Chính phủ trao
giải, chụp ảnh để quảng cáo. Thực tế cho thấy, không thể nào có được sự hoàn
hảo chỉ sau 15 đến 45 ngày viết báo cáo tự đánh giá (Self-assessment) theo yêu
cầu của các tiêu chí của GTCL!
Cũng tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo
của một số tổ chức đoạt giải từ Mỹ, Úc, Châu Âu, Singapore, v.v… đã được mời
làm diễn giả tại Hội nghị chia sẻ kinh nghiệm về quá trình áp dụng các tiêu chí
tiến tới sự hoàn hảo đó. Lộ trình cho việc áp dụng và đạt được giải thưởng
thường mất khoảng trên dưới 10 năm. Mặc dù chưa thể khẳng định là một giải pháp
để giải cứu doanh nghiệp ra khỏi khủng hoảng, nhưng mô hình GTCL được coi là
một định hướng cho sự phát triển bền vững, là nền tảng cho hệ thống quản trị
tiên tiến. Lãnh đạo các tổ chức coi mô hình này là kim chỉ nam cho sự phát
triển đồng thời là kết tinh của những thành tựu trong quản trị học nói chung và
quản trị doanh nghiệp nói riêng.
Đối với Việt Nam, khi số lượng doanh
nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, mới chỉ bước đầu tham gia thị trường thế giới,
nhiều chủ doanh nghiệp, tổng giám đốc, giám đốc điều hành, v.v… chưa qua trường
lớp bài bản về quản trị doanh nghiệp, mô hình GTCL quốc gia và qua kinh nghiệm
của nhiều nước đã chia sẻ trong Hội nghị, các doanh nghiệp Việt Nam nên bắt đầu
tiếp cận với những tiêu chuẩn, tiêu chí trong mô hình này, tập làm quen theo
một lộ trình trung và dài hạn. Bà Kok, Giám đốc truyền thông – Phát triển của
Công ty TNHH Công nghiệp Techwa, lý giải rất đơn giản: “…Chúng tôi cần có mô
hình GTCL của Singapore (SQA) vì chúng tôi là công ty đại chúng (trên sàn giao
dịch chứng khoán) …” Mô hình này giúp doanh nghiệp tạo sự minh bạch, thông
suốt, đặc biệt là sự sáng tạo, thay đổi và cải tiến liên tục.
NHỮNG NGUYÊN TẮC LÀM NỀN TẢNG
Điểm ưu việt của mô hình xuất sắc
này là dù được phát triển trên nền tảng của mô hình Châu Âu hay Mỹ, dù được
chuyển thể thành những mô hình GTCL quốc gia cụ thể tuỳ theo điều kiện của từng
nước, giải thưởng đều được xây dựng trên cơ sở các trụ cột (Pillars) hay nguyên
tắc (Principles) sau đây:
1. Sự lãnh đạo
2. Chiến lược
3. Trách nhiệm xã hội và pháp luật
4. Văn hoá tổ chức
5. Sự kiểm soát và nền quản trị
6. Sự sáng tạo và sự thay đổi
7. Chất lượng của sản phẩm/dịch vụ
8. Nguồn nhân lực
9. Chuỗi giá trị
10. Công nghệ thông tin và quản trị
tri thức
11. Kết quả hoạt động
Có thể khẳng định rằng mỗi một nguyên tắc là một môn học quan trọng cấp
đại học và thạc sỹ trong chương trình quản trị học hoặc quản trị kinh doanh
(MBA). Những công cụ như Lean, 6-Sigma, ISO 9000, ISO 14000, ISO 27000, ISO
26000, BCM, CSR, ERP, FMCA, KM, OHSAS, v.v… chỉ là một bộ phần cấu thành của mô
hình này, đòi hỏi sự phối kết hợp nhuần nhuyền, vận dụng thông minh, linh hoạt
tuỳ thuộc vào lịch sử, truyền thống, văn hoá, nguồn lực và năng lực của tổ
chức. Cách tiếp cận cần rất linh hoạt, không có sự sao chép máy móc, chỉ có sự
học hỏi qua lại, chia sẻ và tận dụng những cái hay nhất của tổ chức khác. Ở các
nước tổ chức đoạt giải có nghĩa vụ chia sẻ.
DỊCH VỤ CÔNG VÀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH
CÔNG
Hội nghị tại Singapore cũng thu hút
tham gia rất nhiệt tình của các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức công, cơ
quan công quyền, cơ quan hành chính, v.v… như trường học, bệnh viện, hải quan,
hãng xe buýt công cộng, hãng tàu điện ngầm, cơ quan thuế, thư viện, cảnh sát,
toà án, nhà tù, cơ quan nhập cư, nhà máy nước, trung tâm y tế, cơ quan hàng
không dân dụng, Bộ ngành của Chính phủ, v.v… Qua đó cho thấy, mô hình GTCL
không chỉ là định hướng đối với tổ chức vì lợi nhuận, hướng vào lợi ích cá nhân
hoặc một nhóm cổ đông nhất định mà còn là công cụ kích thích, tương trợ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Là nước chủ nhà, các đại biểu và chuyên
gia Singapore đã chia sẻ cách thức cổ vũ, khuyến khích các tổ chức công quyền
và dịch vụ công tham gia đông đủ, nhiệt tình, thật sự vào GTCL quốc gia của Singapore
(SQA – Singapore Quality Award). Các đơn vị điển hình là Hải quan Singapore,
Toà án thứ cấp (Subordinate Court) và Ban Quản lý Nhà tù mà họ gọi là “Dịch vụ
nhà tù – Prison Service!” của Singapore. Giá trị nhân văn, hiệu ứng kinh tế -
xã hội, hiệu quả trong giao thương quốc tế là tất cả những gì các tổ chức này
đã mang lại cho đất nước Singapore. Thông qua GTCL như một mô hình khung
(framework) họ tự sáng tạo, vận dụng, tuyên truyền và cổ vũ toàn thể nhân sự,
kể cả các cổ đông, cộng đồng trong, ngoài nước và các bên hữu quan cùng tham
gia vào trong hệ thống quản trị của tổ chức của họ, tạo thành những vòng tay
lớn kết nối công – tư, trong – ngoài, được sự thừa nhận của cả xã hội, sự ghi
nhận của Nhà nước, Chính phủ. Đó chính là giá trị sâu xa, đích thực của mô hình
GTCL.
NGHỊCH LÝ GIẢI THƯỞNG
Thực tế có thể xảy ra khi các nước thành viên triển khai mô hình GTCL
của mình. Mặc dù các mô hình GTCL đều được xây dựng trên nền tảng mô hình GTCL
của Mỹ và Châu Âu với những tiêu chuẩn chi tiết, với thang mức điểm ứng với
từng tiêu chí rất cụ thể nhưng cũng sẽ có trường hợp một tổ chức (Doanh nghiệp,
cơ quan công quyền , cơ quan hành chính công, v.v…) đạt danh hiệu “Vàng” ở nước
này nhưng lại không thể đạt danh hiệu “Đồng” ở nước khác, đặc biệt khi hai hoặc
các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Để tránh rơi vào
cái nghịch lý này, việc giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm đặc biệt là các
chuẩn so sánh (Benchmark), cách làm hay (Best practices), cách làm chuẩn
(Benchmarking performance) là hết sức cần thiết v.v…Cách làm này sẽ giúp nâng
cao tầm quản lý doanh nghiệp và quản trị công của Việt Nam, xích gần với trình
độ của thế giới (world class). Những chuyến học tập (Benchmark study) như thế
sẽ rất cần thiết đối với các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam chúng ta.