Nghiệm thu đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả hóa trị ung thư đại trực tràng bằng Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine tại bệnh viện Ung Bướu Cần Thơ”
Sáng ngày 31/01/2018, Sở Khoa học và Công nghệ TP.Cần Thơ đã tổ chức Hội đồng khoa học và công nghệ nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu hiệu quả hóa trị ung thư đại trực tràng bằng Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine tại bệnh viện Ung Bướu Cần Thơ” do TS.BS Võ Văn Kha – Bệnh viện Ung Bướu TP.Cần Thơ làm chủ nhiệm.
Toàn cảnh buổi nghiệm thu.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kết quả điều trị và tác dụng không mong muốn của phác đồ Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine trong điều trị ung thư đại trực tràng giai đoạn II nguy cơ cao, giai đoạn III và di căn; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị theo phác đồ này.
Hiện nay, tại bệnh viện Ung Bướu TP.Cần Thơ cũng như một số cơ sở chuyên khoa ung thư khác đã sử dụng phác đồ Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine điều trị hỗ trợ sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng giai đoạn II nguy cơ cao, giai đoạn III và ung thư đại trực tràng di căn nhưng chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ nào về kết quả cũng như tác dụng không mong muốn của phác đồ điều trị này.
Nghiên cứu 226 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư đại trực tràng giai đoạn II nguy cơ cao và di căn được điều trị tại bệnh viện Ung Bướu TP.Cần Thơ. Bệnh nhân có kết quả mô bệnh học là ung thư biểu mô. Trong đó có 131 trường hợp ung thư đại trực tràng ở giai đoạn sớm và 95 trường hợp ung thư đại trực tràng di căn. Thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2016.
Ông Trần Ngọc Nguyên - GĐ Sở Khoa học và Công nghệ TP.Cần Thơ, chủ tịch Hội đồng và các thành viên.
Thành viên Hội đồng nghiêm thu.
Nhóm nghiên cứu đề tài.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hóa trị hỗ trợ phác đồ Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine trong ung thư biểu mô tuyến đại tràng giai đoạn II, giai đoạn III có kết quả sống cao. Trong đó, tỷ lệ sống thêm không bệnh 3 năm là 82,7% và thời gian sống thêm không bệnh trung bình là 37,4 tháng; tỷ lệ sống thêm toàn bộ 3 năm là 86,8% và thời gian sống thêm toàn bộ trung bình là 39,2 tháng. Hóa trị tạm phác đồ Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine trong ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng di căn có kết quả đáp ứng và thời gian sống thêm cao. Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ là 46,4%, trong đó đáp ứng hoàn toàn là 5,3%, đáp ứng một phần là 41,1%. Bệnh ổn định 28,4% và 25,3% bệnh tiến triển. Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển là 9,8 tháng, thời gian sống thêm toàn bộ là 18,2 tháng. Tỷ lệ sống thêm không tiến triển bệnh 1 năm là 33,7%, sống thêm toàn bộ 1 năm là 82,1%. Trong giai đoạn ung thư đại trực tràng sớm, hóa trị hỗ trợ phác đồ Oxaliplatin kết hợp với Capecitabine độc tính chấp nhận được. Có 70,1 bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi các độc tính, các độc tính thường ở mức độ nhẹ, chỉ có 16,1% độc tính ở mức độ 3-4. Độc tính nặng về huyết học như giảm bạch cầu độ 3-4 là 31%. Độc tính trên hệ tiêu hóa, thần kinh, da, chủ yếu ở mức độ nhẹ, phần lớn phục hồi sau khi ngưng điều trị. Trong điều trị ung thư đại ttrự tràng di căn có 76,8 % bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi các độc tính, trong đó độc tính độ 3-4 là 26,3%. Độc tính trên hệ tiêu hóa, thần kinh, da chủ yếu ở độ 1-2. Độc tính trên hệ tạo huyết chủ yếu ở độ 1-2, độ 3-4 chỉ có 15,3%. Độc tính trên gan, thận chủ yếu ở độ 1-2, độ 3-4 là 0,8%.
Hội đồng nghiệm thu đã đánh giá nghiên cứu đạt loại xuất sắc, tuy nhiên nhóm nghiên cứu cần bổ sung thêm phần tóm tắt báo cáo, các bài báo nghiên cứu đăng trên tạp chí,…