Tăng cường quản lý nguồn gốc và giá xuất khẩu khoáng sản
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), trong thời gian qua, giá xuất khẩu (XK) một số loại quặng, khoáng sản sang thị trường Trung Quốc có sự chênh lệch so với các thị trường khác. Nguyên nhân chính là do sự khác nhau về chủng loại khoáng sản, không phụ thuộc nhiều vào thị trường XK và Bộ Công Thương đã và đang tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động này.
Bộ Công Thương đã xây dựng và áp dụng đầy đủ, chặt chẽ quy định
về truy xuất nguồn gốc khoáng sản xuất khẩu
Chênh lệch giá không phụ thuộc vào thị trường
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2018, lượng quặng và các loại khoáng sản XK của Việt Nam đạt 1,5 triệu tấn, giá trị XK đạt trên 65,5 triệu USD. Bình quân, giá quặng XK đạt 988.000 đồng/tấn. Trong đó, riêng thị trường Trung Quốc, lượng quặng và khoáng sản Việt Nam xuất sang chiếm 80% tổng lượng XK, đạt gần 1,2 triệu tấn, kim ngạch hơn 29 triệu USD. Tuy nhiên, giá XK trung bình chỉ đạt 560.000 đồng/tấn, rẻ hơn nhiều so với giá XK quặng sang các thị trường khác.
Về vấn đề này, tại văn bản số 898/BC-KSLK của Cục Công nghiệp gửi lãnh đạo Bộ Công Thương phân tích rõ, giá XK theo thống kê của Tổng cục Hải quan mới là giá thành sản xuất, hoặc giá mua quặng của các doanh nghiệp trong nước + chi phí vận chuyển đến cửa khẩu mà chưa bao gồm thuế XK (mức thuế suất từ 5-40%, cao nhất là quặng sắt, titan có thuế suất là 40%), lợi nhuận XK. Những số liệu thống kê trên chưa tính đến độ ẩm tự nhiên và các yếu tố giảm trừ khác làm tăng khối lượng XK, giá XK giảm (ví dụ quặng sắt mỏ Quý Xa có độ ẩm tự nhiên là 17-20%). Do đó, nếu tính đầy đủ các yếu tố trên thì giá XK sang thị trường Trung Quốc không thấp hơn nhiều so với giá bán quặng cùng chủng loại, chất lượng so với các thị trường khác trên thế giới.
Không chỉ có vậy, các loại khoáng sản XK vào thị trường Trung Quốc, dù có khối lượng lớn nhưng là loại khoáng sản có giá trị không cao trong khi đó, khoáng sản XK vào các thị trường khác có khối lượng nhỏ nhưng thường là loại có giá trị cao, như: bột Zircon XK sang Hàn Quốc, Nhật Bản đạt giá trị 1.530 USD/tấn; bột silicat siêu mịn giá 1.600 USD/tấn; Bột đá vôi trắng siêu mịn đạt trên 70 USD/tấn, Alumin trên 500 USD/tấn… Vì vậy, khoáng sản XK sang các thị trường khác ngoài Trung Quốc có giá trị cao hơn nhiều so với thị trường Trung Quốc nếu tính trên khối lượng 1 tấn sản phẩm.
Ở góc độ doanh nghiệp, lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết, Tập đoàn được giao quản lý mỏ và khai thác các loại quặng, khoáng sản bao gồm: quặng đồng, kẽm, thiếc, bauxit, sắt, cromit… Các loại quặng và khoáng sản này đều được TKV chế biến thành sản phẩm hàng hoá cuối cùng (kim loại) thành phẩm, như: đồng, kẽm, thiếc, alumia, hidroxit nhôm, ferro chrome… để bán ra thị trường và TKV không xuất khẩu quặng và khoáng sản dưới dạng thô.
Dẫn số liệu về giá XK alumina sang Trung Quốc từ năm 2013 đến nay, TKV cho biết, năm 2013, xuất khẩu 158.685 tấn, giá bình quân là 267,95 USD/tấn; năm 2014, 2015, 2016, 2017 các con số tương ứng là: 489.355/326,51; 459.222/307,77; 312.849/247,13; 539.433/326,77.
Quản chặt nguồn gốc khoáng sản xuất khẩu
Theo chức năng được phân công, Bộ Công Thương thực hiện quản lý Nhà nước về XK đối với các loại khoáng sản, như: Sản phẩm chế biến từ quặng Titan (xỉ titan, ilmenit hoàn nguyên, zircon, tinh quặng monazit, rutin/rutin nhân tạo); sản phẩm chế biến từ quặng bôxít (alumin, hydroxyt nhôm); tinh quặng Bismut, tinh quặng Niken, bột ôxit đất hiếm riêng rẽ, tinh quặng Fluorit, Bột barit, Đá hoa trắng, Tinh quặng Graphit. Đây đều là những sản phẩm đã được chế biến sâu với mục tiêu nâng cao giá trị khi XK.
Tuy nhiên, thời gian qua, do giá kim loại và khoáng sản giảm sâu, việc chế biến sâu gặp nhiều khó khăn, nhiều dự án ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng hoặc chưa thu hút được các nhà đầu tư để đầu tư dự án theo quy hoạch… nên đối với một số loại khoáng sản Chính phủ có chủ trương không XK để cung cấp nguyên liệu cho các dự án chế biến sâu trong nước, như: quặng sẳt, quặng titan cung vượt xa cầu, dẫn đến tồn kho cao, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, người lao động không có việc làm, ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội, phát triển kinh tế-xã hội của nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc.
Trước tình hình trên, tháng 6/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 46/NQ-CP về tháo gỡ khó khăn trong việc tiêu thụ, XK các loại khoáng sản tồn đọng theo hướng cho phép XK một số khoáng sản tồn kho, như: tinh quặng titan, tinh quặng sắt…, đá ốp lát dạng khối, đá hoa trắng dạng khối. Riêng với quặng sắt, Thủ tướng đã cho phép XK quặng sắt tồn kho và quặng sắt limonit không sử dụng hết.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã phối hợp với UBND các tỉnh kiểm tra và xem xét giải quyết XK cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, khai thác quặng sắt trong năm 2017 với khối lượng như sau: 398.000 tấn quặng sắt manhetit và 3.025.00 tấn quặng sắt limonit.
Đối với quặng titan, tính đến ngày 30/4/2018, Bộ Công Thương đã giải quyết cho 17 doanh nghiệp có tinh quặng ilmenite tồn kho chưa tiêu thụ được phép XK với tổng khối lượng là 940.000 tấn.
Trong quá trình kiểm soát hoạt động XK khoáng sản, Bộ Công Thương đã xây dựng và áp dụng đầy đủ, chặt chẽ quy định về truy xuất nguồn gốc khoáng sản. Theo đó, khoáng sản chỉ được phép XK khi đáp ứng đồng thời các điều kiện, như: phải nằm trong danh mục và đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng tại Phụ lục 01 kèm theo Thông tư Thông tư số 12/2016/TT-BCT ngày 05/7/2016 của Bộ Công Thương; có nguồn gốc hợp pháp (đối với quặng); sản phẩm khoáng sản đã qua chế biến từ các nguồn khoáng sản hợp pháp;…
Với khoáng sản XK trong thành phần chứa thori, urani bằng hoặc lớn hơn 0,05% tính theo trọng lượng ngoài việc đảm bảo các điều kiện nêu trên còn phải có giấy phép XK vật liệu phóng xạ của Bộ Khoa học và Công nghệ theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử.
Ngoài ra, với tất cả các loại quặng, khoáng sản khi XK, tổ chức, cá nhân phải xuất trình cho cơ quan Hải quan hồ sơ chứng minh nguồn gốc khoáng sản hợp pháp.
Trong thời gian tới, để tiếp tục tăng cường công tác quản lý hoạt động XK quặng, khoáng sản, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục làm việc với Tổng cục Hải quan để làm rõ các vấn đề về số lượng, chủng loại các loại khoáng sản XK sang các thị trường để có thông tin chi tiết phục vụ công tác quản lý.
Đặc biệt, dù thẩm quyền kiểm soát giá XK khoáng sản không thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương, song để giá XK các loại khoáng sản theo sát biến động giá thị trường thế giới, Bộ Công Thương kiến nghị Bộ Tài chính và UBND các địa phương nghiên cứu sớm ban hành giá tính thuế XK tối thiểu đối với các loại khoáng sản.
Theo baocongthuong.com.vn (Duc Thuy)