Những gam màu sáng tại thị trường tiêu thụ sản phẩm xi măng
Tiêu thụ sản phẩm xi măng trong năm 2018 ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu đều đạt kết quả hết sức ấn tượng. Đặc biệt xuất khẩu sản phẩm đạt sản lượng khoảng 31,65 triệu tấn, lớn nhất từ trước đến nay và giá trị xuất khẩu sản phẩm xi măng lần đầu vượt qua con số 1 tỷ USD.
Theo TS. Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, trong năm 2018, các doanh nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam đã huy động gần hết công suất thiết kế, khoảng 99 triệu tấn/ năm, trong khi đó tiêu thụ sản phẩm xi măng (bao gồm clinker và xi măng) tại thị trường nội địa và xuất khẩu đã đạt khoảng 96,73 triệu tấn.
Điều này cho thấy, thị trường tiêu thụ sản phẩm xi măng tiếp tục là những “gam màu sáng” tạo động lực cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong những năm tiếp theo.
Thị trường nội địa ổn định, xuất khẩu bứt phá ấn tượng
Theo số liệu của Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) trong năm 2018, sản phẩm xi măng tiêu thụ đạt khoảng 96,73 triệu tấn, tăng 19% so với năm 2017. Trong đó, tiêu thụ trong nước khoảng 65,08 triệu tấn, tăng 9% so với năm 2017, riêng Tổng Công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam (Vicem) tiêu thụ trong nước năm 2018 ước đạt khoảng 21,86 triệu tấn, tăng 8% so với năm 2017.
Ảnh minh họa.
Đặc biệt xuất khẩu sản phẩm xi măng trong năm 2018 đạt khoảng 31,65 triệu tấn, tăng tới 55% so với năm 2017.
Lượng tồn kho sản phẩm xi măng cả nước trong năm 2018 chỉ còn khoảng 1,7 triệu tấn tương đương từ 10-12 ngày sản xuất, chủ yếu là clinker.
Trao đổi với Phóng viên Báo Điện tử Chính phủ, TS. Nguyễn Quang Cung phân tích: Từ số liệu trên cho thấy tiêu thụ sản phẩm xi măng tại thị trường trong nước tương đối ổn định. Cụ thể, nếu so sánh từ năm 2016 trở lại đây thì năm 2018 tiêu thụ sản phẩm xi măng tại thị trường trong nước chỉ tăng 9% so với năm 2017 và năm 2017 gần như không tăng so với năm 2016.
Trong khi đó, về xuất khẩu trong năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu 31,65 triệu tấn sản phẩm xi măng, đạt sản lượng xuất khẩu lớn nhất từ trước tới nay và tăng tới 55% so với năm 2017.
“Không chỉ đạt con số ấn tượng về sản lượng xuất khẩu, giá trị xuất khẩu sản phẩm xi măng cũng đã vượt qua con số 1 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay”, ông Cung cho biết thêm.
Hiện nay, sản phẩm xi măng Việt Nam đã có mặt tại thị trường trên 40 nước. Giá xuất khẩu xi măng năm 2018 đạt trên dưới 50 USD/tấn và clinker từ 38-42 USD (giá xuất khẩu clinker tăng khoảng 10USD/tấn so với năm 2016).
Lý giải về những con số ấn tượng trong xuất khẩu sản phẩm xi măng TS. Nguyễn Quang Cung cho rằng do Trung Quốc là nước xuất khẩu xi măng đứng đầu thế giới đã trở thành nước nhập khẩu xi măng và clinker. Điều này đã làm giảm áp lực cạnh tranh, tăng thị phần xuất khẩu cho Việt Nam và các nước còn lại.Cùng với đó, Trung Quốc xuất khẩu giá rẻ nên khi họ ngừng xuất khẩu sẽ đẩy giá lên, kích thích các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh sản xuất, giảm chi phí giá thành, cải thiện chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của xi măng và clinker tại thị trường xuất khẩu.
Phân tích rõ hơn về sức cạnh tranh của sản phẩm xi măng Việt Nam tại thị trường xuất khẩu, ông Cung cho biết thêm “Nếu so sánh với năm 2017 thì năm 2018, lượng xi măng và clinker mà Việt Nam xuất sang thị trường Trung Quốc chỉ tăng khoảng 5-6 triệu tấn, trong khi sản lượng xuất khẩu sang các thị trường khác tăng đến 11 triệu tấn. Điều này cho thấy sức cạnh tranh của sản phẩm xi măng ngày càng được cải thiện”.
Cần tiếp tục đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm xi măng trong năm 2019, TS. Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội xi măng Việt Nam dự báo đà tăng trưởng tiêu thụ sản phẩm tại thị trường nội địa vẫn đạt khoảng 6-8% trong năm 2019.
Theo ông Cung, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị trường nội địa vẫn còn rất lớn. Tuy nhiên khả nặng hạn chế về tài chính và đầu tư xây dựng làm khâu tiêu thụ sản phẩm tại thị trường này mặc dù vẫn tăng trưởng ổn định nhưng chưa thực sự có bứt phá ấn tượng.
Xuất khẩu sản phẩm xi măng trong năm 2019 vẫn có thể đạt sản lượng từ 20-25 triệu tấn. Tuy nhiên, đại diện Hiệp hội Xi măng cũng khuyến cáo hiện nay thông tin về thị trường xi măng Trung Quốc còn thiếu thông tin chính thống, ảnh hưởng đến công tác dự báo nhu cầu của thị trường này. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu xi măng cần làm tốt hơn nữa công tác dự tính, dự báo nhu cầu thị trường để có kế hoạch sản xuất, xuất khẩu phù hợp với thực tế trong thời gian tới.
Ông Cung cũng khuyến cáo bất cập lớn nhất của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam là năng suất lao động thấp, nhiều dây chuyền công suất nhỏ, trình độ công nghệ không tiên tiến, giá thành chi phí sản xuất cao và những yếu tố liên quan đến công tác bảo vệ môi trường.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ của ngành xi măng thế giới phát triển rất nhanh, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu xi măng Việt Nam nếu không sớm khắc phục những bất cập này thì sẽ “tụt hậu” về công nghệ, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
“Từ thực tế này, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sản phẩm xi măng cần có chiến lược đầu tư, đầu tư có kế hoạch, không ồ ạt, đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu nhằm không ngừng cải thiện công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm”, ông Cung nhấn mạnh.