Thương mại song phương Việt Nam - Braxin năm 2018 tăng trưởng tốt
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, năm 2018, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Bra-xin đạt 4,44 tỉ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó xuất khẩu đạt 2,06 tỉ USD, nhập khẩu đạt 2,38 tỉ USD
Ảnh minh họa
Theo số liệu nói trên, xuất khẩu các sản phẩm chính của Việt Nam sang Bra-xin trong năm 2018 tăng mạnh ở một số mặt hàng như sản phẩm từ cao su tăng 97%, sản phẩm nội thất từ chất liệu gỗ khác (+77%), nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày (+69%), Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác (+57%), các sản phẩm khác có tăng nhưng không đáng kể, cụ thể như: Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận ( +34%), Kim loại thường khác và sản phẩm (+30%).
Đáng lưu ý, mặt hàng thủy sản giảm đáng kể (giảm 16%) so với cùng kì năm 2017, sự suy giảm lượng cá xuất khẩu vào Braxin là do tác động của việc tăng cường kiểm soát chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với file cá đông lạnh khi thông quan đối với tất cả mặt hàng thủy sản nhập khẩu.
Bảng 1: Xuất khẩu từ Việt Nam trong năm 2018
STT
|
Xuất khẩu
|
2017
|
2018
|
Tăng/giảm (%)
|
1
|
Điện thoại các loại và linh kiện
|
764.924.147
|
797.069.934
|
4,20
|
2
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
273.096.434
|
256.666.216
|
-6,02
|
3
|
Giày, dép các loại
|
171.275.094
|
168.149.937
|
-1,82
|
4
|
Máy móc, thiết bị dụng vụ phụ tùng khác
|
103.744.582
|
163.309.786
|
57,42
|
5
|
Hàng thủy sản
|
105.897.336
|
88.064.381
|
-16,84
|
6
|
Phương tiện vận tải và phụ tùng
|
83.592.734
|
87.919.596
|
5,18
|
7
|
Xơ, sợi, dệt các loại
|
69.239.733
|
81.290.233
|
17,40
|
8
|
Hàng dệt, may
|
47.125.042
|
53.804.497
|
14,17
|
9
|
Kim loại thường khác và sản phẩm
|
16.434.490
|
21.487.183
|
30,74
|
10
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
24.670.068
|
21.435.356
|
-13,11
|
11
|
Cao su
|
14.986.485
|
13.904.614
|
-7,22
|
12
|
Nguyên phụ liệu dệt may, da, giày
|
7.667.594
|
12.985.419
|
69,35
|
13
|
Sản phẩm từ cao su
|
6.506.200
|
12.831.068
|
97,21
|
14
|
Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù
|
10.158.151
|
10.653.208
|
4,87
|
15
|
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
|
7.596.609
|
10.210.755
|
34,41
|
16
|
Vải mành, vải kỹ thuật khác
|
9.061.341
|
8.058.808
|
-11,06
|
17
|
Sắt, thép các loại
|
4.720.318
|
2.157.893
|
-54,29
|
18
|
Sản phẩm mây , tre, cói và thảm
|
1.294.246
|
1.294.921
|
0,05
|
19
|
Sản phẩm nội thất từ chất liệu gỗ khác
|
109.846
|
194.992
|
77,51
|
|
Tổng cộng
|
2.040.610.549
|
2.057.810.497
|
0,84
|
Bảng 2: Nhập khẩu từ Braxin trong năm 2018
STT
|
Nhập khẩu
|
2017
|
2018
|
Tăng/giảm (%)
|
1
|
Ngô
|
464.446.132
|
496.463.701
|
6,89
|
2
|
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
140.949.879
|
471.963.414
|
234,84
|
3
|
Bông các loại
|
226.250.715
|
357.921.823
|
58,20
|
4
|
Quặng và khoáng sản khác
|
101.162.409
|
301.396.396
|
197,93
|
5
|
Đậu tương
|
253.859.655
|
144.067.213
|
-43,25
|
6
|
Sắt thép các loại
|
168.285.048
|
97.359.779
|
-42,15
|
7
|
Nguyên phụ liệu thuốc lá
|
87.380.146
|
89.664.690
|
2,61
|
8
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
126.826.896
|
85.525.270
|
-32,57
|
9
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
48.684.016
|
69.056.829
|
41,85
|
10
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
16.861.057
|
36.426.411
|
116,04
|
11
|
Hóa chất
|
27.048.287
|
17.800.607
|
-34,19
|
12
|
Lúa mì
|
21.093.086
|
16.782.301
|
-20,44
|
13
|
Kim loại thường khác
|
73.419
|
7.879.486
|
10632,22
|
14
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
10.015.688
|
6.901.006
|
-31,10
|
15
|
Hàng rau quả
|
4.849.000
|
6.073.194
|
25,25
|
16
|
Linh kiện, phụ tùng ô tô
|
6.004.390
|
5.288.330
|
-11,93
|
17
|
Chế phẩm thực phẩm khác
|
832.571
|
920.799
|
10,60
|
18
|
Phế liệu sắt thép
|
2.557.858
|
123.855
|
-95,16
|
|
Tổng cộng
|
1.834.575.752
|
2.389.222.157
|
30,23
|
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu của Bra-xin sang Việt Nam có xu hướng tiếp tục tăng trong năm 2018, do nhu cầu cao cho các nguyên liệu công nghiệp như kim loại thường khác (tăng +10.632 %), thức ăn gia súc và nguyên liệu (+234%), quặng và khoáng sản khác (+197%), Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (116%), Bông các loại(+58%), Gỗ và sản phẩm gỗ (+41%), so với cùng kỳ năm 2017. Nhưng cũng có một số mặt hàng giảm đáng kể như phế liệu sắt thép (-95%), đậu tương (-43%), Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày (-33%).
Số liệu của cả hai bên cho thấy, trao đổi thương mại hai chiều có xu hướng phục hồi và tăng đều qua các năm. Nhập khẩu các sản phẩm của Braxin vào Việt Nam tăng mạnh (tăng 30%) so với năm 2017 có nguyên nhân là do Chính phú Bra-xin chủ trương hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu bằng cải cách thủ tục xuất khẩu, đồng nội tệ trong năm giảm mạnh so với đô la Mỹ có lợi cho xuất khẩu. Các mặt hàng nông nghiệp có thể mạnh của Bra-xin đang vào mùa vụ thu hoạch và có năng suất cao. Sự biến động của thương mại thế giới đặc biệt là các nền kinh tế vốn là đối tác chính của Braxin (Mỹ, Trung Quốc) khiến các mặt hàng nông sản Braxin được tìm kiếm nhiều hơn trên thị trường quốc tế.
Dự báo, trong năm 2019, cùng với chủ trương kích cầu nền kinh tế và những kết quả của cuộc họp cấp cao giữa hai nước diễn ra trong năm 2018, xuất nhập khẩu giữa hai nước tiếp tục trên đà tăng trưởng ổn định. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa cũng cho thấy tính bổ sung cao của hai nền kinh tế, Bra-xin chủ yếu xuất khẩu các loại hàng hóa cơ bản (tỉ trọng chiếm khoảng 80% xuất khẩu của Bra-xin sang Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu hàng hóa chế biến, chế tạo (chiếm khoảng 90%) nhập khẩu của Bra-xin từ Việt Nam trong năm 2018. Điều này cho thấy tiềm năng trao đổi thương mại giữa hai nước còn rất lớn vì mỗi nước đều có thế tận dụng tốt năng lực cạnh tranh trong các lĩnh vực có thế mạnh.
Một số vấn đề đặt ra trong năm 2019
Tổng thống đắc cử Jair Bolsonaro là người theo trường phái cực hữu sẽ tập trung vào phát triển kinh tế theo mô hình nước Mỹ hiện tại. Là một nước có tổng thu nhập quốc nội GDP lớn nhất Nam Mỹ và đứng thứ 7 thế giới, trước đây, kinh tế Bra-xin không thực sự hướng ngoại, chủ yếu vào phục vụ phát triển thị trường nội địa. Nhưng sắp tới, chính sách này có thể thay đổi với việc chính quyền mới đang ngỏ ý tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do và thành lập các khối kinh tế mới trong đó vai trò của Bra-xin được thể hiện rõ hơn.
Về xuất khẩu, Bra-xin tiếp tục áp dụng các chính sách tăng cường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chủ đạo như đậu tương, ngô, bông, thịt các loại bằng việc áp dụng hàng loạt các chương trình kích thích xuất khẩu như chương trình 500 nghìn tấn: nhằm đạt được trung bình hàng tháng là 500 nghìn tấn trong tổng xuất khẩu thịt gia cầm và thịt lợn cho đến cuối năm 2020.
Mặt khác, Bra-xin tiếp tục thực hiện các quy định quốc tế về phòng vệ thương mại. Năm 2018, cho đến đầu tháng 12/2018 , đã có 33 cuộc điều tra về việc bán phá giá đã được bắt đầu, trong đó 27 cuộc điều tra đã được rà soát. Trong cùng thời gian, 17 cuộc điều tra khác áp dụng biện pháp chống bán phá giá và điều tra trợ cấp được hoàn thành với việc áp dụng biện pháp áp thuế. Chính sách này khả năng cao sẽ có thể thay đổi khi Chính phủ mới thực hiện cải cách bắt đầu từ năm 2019.
Về đầu tư, Braxin đã được nâng hạng đáng kể trong các chỉ số về thương mại nước ngoài (đã đi từ vị trí thứ 139 đến vị trí thứ 106) và đi từ thứ 125 lên 109 trong chỉ số về môi trường kinh doanh. Sự cải thiện này phản ánh những nỗ lực của Bra-xin trong việc thực hiện các biện pháp thuận lợi hóa thương mại. Điều này đã góp phần củng cổ niềm tin cho các nhà đầu tư tại Braxin.
Sự biến động của thương mại thế giới khiến xu hướng đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu được Braxin tiếp tục đẩy mạnh. Hiện tại, các mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam chiếm ưu thế là thủy sản, giày dép, sản phẩm từ cao su và hàng thủ công mỹ nghệ. Braxin có nhu cầu cao cho các sản phẩm tiêu dùng và làm đẹp với giá cả cạnh tranh. Vì vậy, để củng cố vị trí các mặt hàng trên tại thị trường Bra-xin, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia các hội chợ để quảng bá giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác mới. Đồng thời lưu ý cập nhật thông tin thường xuyên và đảm bảo chất lượng hàng theo quy định nước sở tại nhằm xây dựng hình ảnh thương hiệu vì mục đích lâu dài.