Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng mô hình ‘lúa – tôm càng xanh” tại xã Thới Thạnh, huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
Chủ nhiệm dự án: Cn Ngô Hồng Yến; Cơ quan thực hiện: Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Cờ Đỏ; Thời gian thực hiện: 11/2001 – 11/2003.
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tôm càng xanh là đối tượng thủy sản có chất lượng thịt thơm
ngon, có giá trị dinh dưỡng cao. Chính vì vậy, tôm càng xanh là một trong những
đối tượng rất quan trọng đối với nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản nước
ngọt. Hiện nay, tôm càng xanh được nuôi bằng nhiều hình thức phổ biến như nuôi
trong ao đất, mương vườn, nuôi đăng quầng, nuôi trong ruộng lúa...
Nuôi tôm trong ruộng lúa là hình thức canh tác kết hợp giữa
trồng trọt và thủy sản. Phương thức nuôi này đã góp phần tăng thu nhập cho
người dân trên một đơn vị diện tích đất.
Nhằm tận dụng diện
tích mặt nước sẵn có và góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, việc
xây dựng một mô hình tôm - lúa dựa trên tiến bộ khoa học kỹ thuật để mang lại
lợi nhuận, tăng thu nhập cho người dân so với độc canh cây lúa là một việc làm
rất cần thiết.
II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
1. Mục tiêu:
-
Tăng hiệu quả kinh tế của người nông dân bằng cách chuyển đổi hệ canh
tác với kỹ thuật kết hợp nuôi tôm luân canh trong ruộng lúa.
- Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật khoa
học công nghệ cho nông dân vùng dự án, đưa năng suất lúa Đông Xuân từ 4,5
tấn/ha lên 5,0 tấn/ha; tăng tổng thu nhập từ mô hình lúa tômh ( 3- 4 lần so với
canh tác lúa đơn thuần).
- Xác định hiệu quả kinh tế của mô hình để từng bước
hoàn thiện kỹ thuật nuôi tôm luân canh với lúa, từ đó có thể nhân mô hình sản
xuất thử ra diện rộng, phục vụ cho sản xuất toàn vùng.
- Sau khi kết thúc dự án, đào tạo 02
kỹ thuật viên và tập huấn 40 hộ nông dân sản xuấtt mô hình lúa - tôm càng xanh.
2. Nội dung:
- Điều tra về hiện trạng nuôi thủy
sản xã Thới Thạnh, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ (nay là xã Thới Thạnh, huyện Cờ
Đỏ, TP. Cần Thơ). Đánh giá thực trạng lợi nhuận của nông hộ tham gia dự án
trước khi ứng dụng mô hình lúa - tôm càng xanh.
- Tập huấn kỹ thuật nuôi tôm càng
xanh trên ruộng lúa cho người dân vùng dự án. Hỗ trợ cho nông dân dụng cụ để
xác định Oxy, pH và nhiệt độ nước.
- Phân tích hiệu quả kinh tế của mô
hình tôm lúa luân canh.
- So sánh hiệu quả kinh tế của mô
hình tôm lúa với mô hình 3 vụ lúa.
3. Phương pháp thực hiện:
- Địa điểm thực hiện dự án: xã Thới Thạnh, huyện Ô Môn, tỉnh Cần
Thơ (nay là xã Thới Thạnh, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ)
- Phương pháp thực hiện:
+
Điều tra nông hộ nuôi tôm, cá: phỏng vấn 20 hộ trong địa bàn dự án có ruộng
thích hợp nuôi tôm, đảm bảo an ninh, tiện chăm sóc, quản lý; có điều kiện kinh
tế khá; có nguồn nhân lực đảm bảo cho việc thực hiện nuôi tôm và có tinh thần
học hỏi cầu tiến, quyết tâm nuôi tôm.
+ Tập huấn kỹ thuật canh tác lúa
Đông Xuân (ĐX): thời điểm xuống giống vào tháng 11 và thu hoạch vào
tháng 2 năm sau.
+ Kỹ thuật nuôi tôm càng
xanh: sau khi thu hoạch xong lúa ĐX tiến hành vệ sinh đồng ruộng. Thời điểm thả
con giống vào tháng 3- 4, thu hoạch vào tháng 11.
+ Phương thức đầu tư và
thu hồi vốn: hỗ trợ không hoàn lại cho nông dân chi phí tôm giống và một phần
chi phí thức ăn, chi phí còn lại sẽ được đầu tư cho nông dân và thu hồi sau khi
kết thúc dự án.
+ Thu mẫu và xử lý số
liệu: định kỳ thu mẫu nước ở các ruộng mỗi tháng một lần. Các yếu tố môi trường
được thu mẫu và phân tích mẫu gồm: nhiệt độ (sử dụng nhiệt kế thủy ngân), pH (giấy
so màu pH), Oxy (test nhanh)
. Thường xuyên kiểm tra hoạt động
của tôm nhất là vào sáng sớm, tình trạng, mức độ lột xác thông qua chài lưới và
sàn ăn.
. Năng suất lúa và tôm sẽ được tính
toán sau khi thu hoạch.
. Xử lý số liệu: các số liệu theo dõi
trong quá trình nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm Excel.
III.
KẾT QUẢ
Sau khi điều tra, dự án đã chọn và
thực hiện trên ruộng lúa của 03 hộ với tổng diện tích 20 ha tại xã Thới Thạnh,
huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ.
1. Năng suất vụ lúa ĐX:
Kết quả lượng phân bón sử dụng trong
vụ lúa ĐX cho thấy lượng phân bón Urê, DAP và Kali ở 3 ruộng lúa dao động từ
380 - 405 kg/ha/vụ (bình quân 395 kg/ha/vụ) và năng suất lúa từ 5,5 - 6,1
tấn/ha/vụ, năng suất bình quân 5,9 tấn/ha/vụ (vụ 1: chưa nuôi tôm). Năng suất lúa
vụ 2 đạt 5,9 - 6,1 tấn/ha/vụ, năng suất bình quân 6,1 tấn/ha/vụ. Sau vụ tôm đầu
tiên, lượng phân bón sử dụng giảm 40 -
50%. Tuy nhiên, năng suất bình quân của
2 vụ không giảm và tăng 0,2 tấn/ha/vụ so với vụ 1. Năng suất bình quân ở các
ruộng đạt 6 tấn/ha/vụ. Kết quả cho thấy phân tôm và thức ăn thừa của vụ nuôi
tôm góp phần tăng độ phì nhiêu của đất từ đó tăng năng suất lúa, giảm chi phí
sản xuất (giảm phân, giảm thuốc trừ sâu), giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
2. Năng suất tôm nuôi trong ruộng
lúa:
Sau 6,5 - 7 tháng nuôi, năng suất
bình quân tôm nuôi ở vụ 1 đạt 555 kg/ha/vụ, năng suất cao nhất ở ruộng 1 là 666
kg/ha/vụ, ruộng 2 đạt 600 kg/ha/vụ, ruộng 3 đạt 400kg/ha/vụ.
Kết quả nuôi của vụ 2, năng suất
bình quân tôm nuôi đạt 672 kg/ha/vụ, năng suất cao nhất ở ruộng 1 đạt 815
kg/ha/vụ, ruộng 2 đạt 700 kg/ha/vụ và ruộng 3 đạt 500 kg/ha/vụ. Năng suất tôm
nuôi ở các ruộng của vụ 2 đều cao hơn so với vụ 1. Ở vụ tôm thứ 2, các hộ nuôi
đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật tốt hơn từ khâu chuẩn bị nuôi, thả con giống
đến cách cho ăn, chăm sóc và quản lý. Năng suất tôm ở các ruộng đạt từ 450 -741
kg/ha/vụ, năng suất bình quân 614 kg/ha/vụ cao hơn so với mô hình tôm lúa xen
canh (chỉ đạt 154 kg/ha/vụ). Kết quả cho thấy có sự chuyển biến rất lớn về các
biện pháp kỹ thuật qua việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng
ruộng đã góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả nuôi tôm, từng bước xây dựng
hoàn thiện mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa ở xã Thới Thạnh, huyện Cờ
Đỏ, TP. Cần Thơ.
3. Hiệu quả của mô hình:
- Về kinh tế:
Hiệu quả
kinh tế của mô hình nuôi tôm càng xanh
TT
|
Chỉ
tiêu
|
Vụ
tôm
|
Vụ
lúa ĐX
|
Hệ
thống tôm - lúa
|
01
|
Lợi
nhuận (triệu đồng/ha)
|
42,1
|
10,6
|
52,7
|
02
|
Tổng
chi (triệu đồng/ha)
|
22,9
|
5,6
|
28,5
|
03
|
Lãi
ròng (triệu đồng/ha)
|
19,2
|
5,0
|
24,2
|
Tổng thu nhập bình quân từ
mô hình tôm lúa là 52,7 triệu đồng/ha, trong đó thu từ vụ tôm là 42,1
triệu đồng/ha và vụ lúa ĐX là 10,6 triệu đồng/ha. Lợi nhuận của mô hình sản
xuất là 24,2 triệu đồng/ha (vụ lúa ĐX 5 triệu đồng/ha và vụ tôm đạt 19,2 triệu
đồng/ha).
Kết quả cho thấy mô hình nuôi tôm
càng xanh luân canh với trồng lúa ĐX đạt thu nhập trên 50 triệu đồng/ha và lợi
nhuận từ mô hình này khá cao đã góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Diện tích có khả năng nuôi tôm lúa kết hợp ở huyện Cờ Đỏ lên đến
gần 1.000 ha thì lợi nhuận mang lại khoảng 24 tỷ đồng.
- So sánh hiệu quả kinh tế của mô
hình nuôi tôm - lúa luân canh và mô hình 3 vụ lúa
STT
|
Chỉ
tiêu
|
1
vụ tôm - 1 vụ lúa
|
3
vụ lúa
|
1
|
Tổng
thu (triệu đồng/ha)
|
52,7
|
23,8
|
2
|
Tổng
chi (triệu đồng/ha)
|
28,5
|
14,3
|
3
|
Lãi
ròng (triệu đồng/ha)
|
24,2
|
9,5
|
Qua bảng trên cho thấy, tổng thu
nhập của mô hình sản xuất 3 vụ lúa chỉ bằng 45% so với 1 vụ tôm và 1 vụ lúa ĐX.
Lợi nhuận của mô hình tôm lúa là 24,2
triệu đồng/ha, trong khi làm 3 vụ lúa lợi nhuận mang lại chỉ có 9,5 triệu
đồng/ha. Kết quả cho thấy hiệu quả kinh tế của mô hình tôm - lúa luân canh cao
gấp 2,5 lầnso với làm 3 vụ lúa.
Về xã hội: tận dụng tối đa diện tích
đất và mặt nước hợp lý cho từng vùng sinh thái nông nghiệp. Tạo việc làm cho
người lao động trực tiếp mang lại hiệu quả kinh tế cao và những người lao động
gián tiếp (bắt ốc bươu vàng bán cho người nuôi làm thức ăn cho tôm) góp phần
tăng thu nhập. Mô hình sản xuất này thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp, tạo ra sản
phẩm cho xã hội, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống người dân.
Kết quả năm 2004 cho thấy diện tích
nuôi tôm càng xanh trong địa bàn xã Thới Thạnh nói riêng và toàn huyện nói
chung đã tăng đáng kể với tổng diện tích nuôi trên 100 ha.
Về môi trường: mô hình một vụ
lúa và một vụ tôm bước đầu xây dựng thành công không chỉ về mặt kinh tế, xã hội
mà còn về môi trường. Mô hình góp phần giảm sử dụng nông dược trên đồng ruộng
trong sản xuất lúa, giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường do nông dược gây ra.
II.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1.
Kết
luận:
Mô
hình trồng lúa ĐX nuôi tôm càng xanh luân canh trên ruộng lúa giúp người dân
giảm lượng phân bón sử dụng ở vụ 2 từ 40% - 50% nhưng năng suất vẫn không giảm.
Năng suất lúa bình quân ở các ruộng đạt 6 tấn/ha/vụ.
- Việc hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật góp phần bảo vệ
môi trường và đảm bảo cho hệ sinh thái nông nghiệp phát triển bền vững.
- Trong quá trình nuôi, một số yếu tố môi trường qua khảo
sát cho thấy thích hợp cho sự phát triển của tôm càng xanh.
- Năng suất tôm đạt từ 450kg đến 741 kg/ha/vụ, năng suất
bình quân 614 kg/ha/vụ.
- Mô hình một vụ lúa và một vụ tôm cho thu nhập cao gấp 2,5
lần so với trồng 3 vụ lúa. Tổng thu nhập từ mô hình sản xuất này trên 50 triệu
đồng/ha và lợi nhuận là 24 triệu đồng/ha. Kết quả nghiên cứu cho thấy sức hấp
dẫn của mô hình này đối với người nông dân rất lớn và hoàn toàn có thể nhân rộng ra ngòai vùng dự án.
2.
Đề
xuất:
- Tiếp tục xây dựng
mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa ngày càng hoàn thiện hơn tiến tới ổn
định quy trình.
- Nhân rộng mô hình sản xuất này và chuyển giao các tiến bộ
kỹ thuật cho người dân ngoài vùng dự án.
- Cần triển khai nhiều mô hình hơn nữa làm cơ sở khẳng định
kết quả của mô hình về kỹ thuật và hiệu quả nuôi.
- Tăng cường công tác vận động các hộ trồng lúa không sử
dụng các nông dược có thời gian tồn lưu dài và không sử dụng các hóa chất bị
cấm để diệt ốc bươu vàng.
Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ