Xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa tại xã Thới Thuận và xã Thạnh Quới, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ.
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Nguyễn Minh Thông và TS.Nguyễn Thanh Phương; Cơ quan chủ trì: Sở KH&CN TP. Cần Thơ và Chi cục BV và PTNLTS Cần Thơ; Cơ quan chuyển giao công nghệ: Khoa Thủy sản (ĐHCT); Thời gian thực hiện: 2001 – 2003.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhằm góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu
sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thông qua ứng dụng các mô hình sản
xuất thủy sản mới. Một trong những giải pháp tích cực giúp nâng cao hiệu quả
sản xuất thì nuôi tôm càng xanh được chọn là một giai pháp có triển vọng cao
nhất.
Những năm qua, qui trình sản xuất giống tôm càng xanh và
nuôi tôm trong ruộng lúa đã được Khoa Thủy sản trường Đại học Cần Thơ nghiên
cứu và thử nghiệm thành công ở một số địa phương và xem đây là những mô hình
khoa học, công nghệ mới có thể ứng dụng vào sản xuất đại trà rất phù hợp trong
điều kiện tương tự; vùng ngập lũ của các tỉnh ĐBSCL nói chung và của tỉnh Cần
Thơ nói riêng.
II. MỤC TIÊU VÀ
NỘI DUNG THỰC HIỆN
1. Mục tiêu:
- Chuyển giao và tiếp nhận qui trình sản xuất tôm giống
càng xanh nước xanh cải tiến qui mô nhỏ và qui mô trung bình cho tổ hợp tác sản
xuất giống Thủy sản Tân Phát huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ.
- Chuyển giao và tiếp nhận qui trình nuôi thương phẩm tôm
càng xanh trong ruộng lúa sử dụng tôm nhân giống nhân tạo cho nông dân 2 xã
Thới Thuận và Thạnh Quới, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ.
2. Nội dung: dự án được triển khai 2 mô hình:
Mô hình 1: Chuyển giao
và tiếp nhận qui trình sản xuất tôm càng xanh nước xanh cải tiến.
Mô hình 2: Xây dựng mô
hình nuôi tôm càng xanh thương phẩm trong ruộng lúa.
III. KẾT QUẢ
1. Mô hình 1:
3 đợt
ương đầu tiên trong giai đoạn chuyển giao và tiếp nhận kỹ thuật, cơ sở sản xuất
giống tôm đã sản xuất được 850.000 tôm bột.
Từ
tháng 11/2002, trại đã đi vào sản xuất đại trà cung cấp giống cho nuôi tôm
trong vùng. Tổng sản lượng tôm giống sản xuất trong thời gian thực hiện dự án
là 2.760.000 tôm bột. Tôm sản xuất từ trại giống luôn có chất lượng cao và nuôi
đạt năng suất cao.
Giá
thành tôm giống sản xuất tính trung bình trong thời gian thực hiện dự án là 60
đồng/con. Tuy nhiên, giá bán ra căn cứ vào giá thị trường bình quân là 100
đồng/con.
2. Mô hình 2:
- Mô hình 2 được thực hiện với 29 hộ, sau thời gian 6 - 7
tháng nuôi (bắt đầu từ tháng 5-6 và kết thúc tháng 11-12/2002). Trong thời gian
nuôi, có 01 hộ bị thất bại hoàn toàn sau 2 lần thả giống nên chỉ còn 28 hộ.
Bảng tóm tắt chỉ tiêu năng
suất và kinh tế của mô hình 2
STT
|
Chỉ
tiêu
|
Trung
bình
|
1
|
Năng suất nuôi
(kg)
|
705 ±
344 (393 - 2,100)
|
2
|
Tổng chi (triệu
đồng)
|
19,9 ±
6,50 (8,5 - 35)
|
3
|
Tổng thu (triệu
đông)
|
36,7 ±
14,7 (12 - 65)
|
4
|
Lãi ròng (triệu
đồng)
|
17.2 ±
10.1 (3.5 - 45)
|
Năng
suất bình quân là 705 kg/ha (tăng 205 kg/ha so với dự kiến) và lãi ròng từ nuôi
tôm là 17,2 triệu đồng/ha (tăng khoảng 5 triệu đồng/ ha so với dự kiến). Kết
quả cũng cho thấy những hộ sản xuất tốt thì năng suất có thể cao hơn 1 tấn/ha
(cao nhất là 2,1 tấn/ha) và mức lãi ròng từ tôm có thể lên đến 40 – 45 triệu
đồng/ha.
3. Kết quả về đào tạo, quảng bá kỹ thuật và mở rộng các
mô hình:
Mô
hình 1:
Trong
thời gian triển khai chuyển giao kỹ thuật, ngoài 04 cán bộ được tập huấn tại
khoa Thủy sản (ĐHCT) còn có 04 kỹ thuật viên tham gia vào sản xuất tại trại
cũng tiếp nhận được kỹ thuật sản xuất giống tôm và có đủ năng lực để vận hành
trại sản xuất giống. Trại giống của dự án đã trở thành đơn vị chủ lực sản xuất
giống cung cấp chung các vùng nuôi tôm của huyện Thốt Nốt.
Mô hình 2:
Trong
thời gian triển khai, dự án đã đào tạo được 02 cán bộ huyện, 06 cán bộ của hai
xã vùng dự án và 06 cán bộ của 3 xã ngoài vùng dự án của huyện Thốt Nốt và 01
cán bộ của nông trường Cờ Đỏ; 28 hộ tham gia dự án đã trở thành các cộng tác
viên cơ sở cho việc mở rộng qui mô của mô hình. Ngoài ra, sau khi thực hiện
xong 28 hộ nuôi, dự án tiến hành triển khai tập huấn mở rộng thêm 4 lớp cho
huyện Thốt Nốt, đưa tổng số người được đào tạo lên 420 người.
Diện tích nuôi tôm và số hộ nuôi tôm được mở rộng lên rất
nhiều vào năm 2003, theo đó huyện Thốt Nốt có 120 ha, tập trung ở Thạnh Quới và
Thới Thuận, nông trường Cờ Đỏ của huyện Ô Môn cũng có 20 ha trong số 103 ha dự
kiến phát triển nuôi tôm trên ruộng lúa trong tương lai.
4. Hiệu quả của dự án:
Dự án đã chuyển giao tiến bộ khoa học “mới” vào sản xuất,
chính vì tính “mới” này mà người sản xuất còn cân nhắc trước khi tiếp nhận. Tuy
nhiên, cả hai phía chuyển giao, phía tiếp nhận và các đơn vị phối hợp đều rất
cố gắng trong quá trình triển khai nên dự án được đánh giá rất thành công.
- Về kỹ thuật: cơ quan chuyển giao và các đơn vị phối
hợp đã thành công trong việc chuyển giao 2 mô hình sản xuất mới và 2 mô hình
này đã thể hiện tính ổn định về mặt kỹ thuật.
Đối với mô hình 1, đơn vị tiếp nhận đã ứng dụng tốt các
yêu cầu kỹ thuật và tiến hành sản xuất thành công và có thể sản xuất từ 2,5 đến
3 triệu tôm bột/năm. Hiện trại giống đang bắt đầu vụ sản xuất đầu tiên sau khi
dự án kết thúc.
Mô hình 2 đã thực hiện sang năm thứ hai (2003) và đang
thu hoạch với năng suất bình quân hơn 700 kg/ha, trong đó có rất nhiều hộ đạt
năng suất hơn 1,2 tấn /ha.
Như vậy, việc tiếp nhận kỹ thuật mới của người dân đã có
kết quả thể hiện qua thực tế sản xuất. Kết quả từ thực tế là yếu tố quan trọng
cho việc quảng bá kỹ thuật cho nhiều nơi ứng dụng. Từ đó góp phần đa dạng hóa
mô hình sản xuất và thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tuy
số tôm giống sản xuất ra ít hơn dự kiến của dự án (2.760.000 tôm bột được sản
xuất so với chỉ tiêu đặt ra là 3.000.000 tôm bột) nhưng nhờ đảm bảo chỉ tiêu kỹ
thuật nên chất lượng cao, giá thành hợp lý và giá giống cao nên vẫn đạt hiệu
quả kinh tế.
- Về kinh tế: Hiệu quả của 2 mô hình sản xuất đã rõ
rệt.
Mô hình
1: tôm bột sản xuất ra với giá thành phù hợp (60 đồng/con) và giá bán dao
động theo giá thị trường nhưng bình quân là 100 đồng/con. Như vậy, nếu trại sản
xuất ổn định từ 2,5 đến 3 triệu con/năm thì lãi ròng se dao động từ 100 đến 120
triệu đồng/năm. Hơn nữa, trại sản xuất được con giống chất lượng cao sẽ góp
phần làm tăng hiệu quả kinh tế của người nuôi nhờ giảm tỷ lệ hao hụt và năng
suất cao.
Hiệu quả kinh tế của mô hình 2 rất rõ ràng và hấp dẫn
người dân ứng dụng. Nếu chỉ so sánh hiệu quả kinh tế từ nuôi tôm với làm lúa Hè
Thu thì tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn từ 7 đến 8 lần, điều này cho thấy
các hộ nông dân không sản xuất lúa Hè Thu chuyển sang nuôi tôm là điều hoàn
toàn phù hợp với xu thế nâng cao hiệu quả sản xuất trên nền đất lúa.
Mô hình đã góp phần tăng thu nhập cho người sản xuất, xóa
đói, giảm nghèo và tăng nguồn hàng hóa cho xuất khẩu và tiêu dùng.
- Về xã hội: thành công của dự án có tác động rất lớn
về mặt xã hội, những tác động chính đó là:
+ Tạo việc làm có hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân
ở những vùng ngập lũ trong thời gian nhàn rỗi.
+ Tạo công ăn việc làm cho những người không nuôi tôm
hoặc không có điều kiện nuôi tôm qua việc cung cấp cho người nuôi tôm như cá
tạp, ốc bươu vàng.
+ Thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế trong sản
xuất và tạo sản phẩm cho xã hội góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống của người dân ở vùng nông thôn sâu và ngập lũ.
+ Góp phần làm tăng tính cộng đồng trong sản xuất (03 hộ
hợp tác nuôi chung 03 ha để giảm chi phí
đầu tư).
+ Hình thành đơn vị hợp tác làm ăn để tiến lên thành các
hợp tác xã (các hộ tham gia dự án và một số hộ mới đã thành lập Câu lạc bộ
(CLB) nuôi tôm trong năm 2003).
Ngoài ra, sự thành công của dự án đã thu hút sự đầu tư
của ngân hàng Sài Gòn Thương Tín cho người sản xuất. Năm 2003, ngân hàng đã đầu
tư cho 35 hộ trong CLB nuôi tôm với hơn 1 tỷ đồng (40 triệu đồng/ha). Đây là
tiền đề quan trọng trong đầu tư phát triển mô hình nuôi tôm ruộng ở Cần Thơ nói
riêng và các tỉnh khác nói chung.
- Về môi trường:
Trong 29 hộ chọn thực hiện dự án, có 01 hộ thất bại do sử
dụng nhiều nông dược trong mùa sản xuất trước làm tồn lưu độc tố trong đất nên
khi chuyển sang nuôi tôm đã làm chết tôm khi thả giống. Chính sự thất bại này
đã làm cho người dân cẩn thận hơn khi sử dụng nông dược trong sản xuất lúa và
hoa màu.
Luân canh một vụ lúa, một vụ tôm đã góp phần làm giảm sử
dụng nông dược, giảm thiểu ô nhiễm môi trường do nông dược. Hơn nữa, việc khai
thác ốc bươu vàng làm thức ăn cho tôm đã góp phần đáng kể giảm lượng ốc bươu
vàng trên ruộng lúa (1 ha nuôi tôm tiêu thụ từ 250 - 300 kg ốc bươu vàng/ngày).
IV. KIẾN NGHỊ
- Cần có cơ chế phù hợp cho việc phát triển và “nuôi”
đội ngũ cãn bộ cơ sở để họ làm tốt công tác tư vấn kỹ thuật trong quá trình sản
xuất của người dân. Đặc biệt, tư vấn cho các câu lạc bộ hay hợp tác xã nuôi tôm
cũng cần được tiếp tục duy trì và tăng cường.
- Cần tiếp tục đầu tư hay hỗ trợ vốn phù hợp cho việc mở
rộng trại sản xuất giống tôm để đáp ứng cho yêu cầu mở rộng diện tích nuôi
trong thời gian tới.
- Cần trợ giúp tài chính cho các cơ quan nghiên cứu phát
triển kỹ thuật đánh giá chất lượng tôm giống sạch bệnh và chuyển giao cho người
dân để nhằm giảm hao hụt khi mua tôm giống.
- Cần tiếp tục nghiên cứu việc phát triển mô hình nuôi
tôm trên ruộng ở các vùng sinh thái khác nhau để có thể chuyển giao kỹ thuật
phù hợp cho người sản xuất, đảm bảo hiệu quả sản xuất.
Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ