SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Xây dựng mô hình ứng dụng các tiến bộ KHCN sản xuất giống mía tốt và phát triển vùng nguyên liệu mía cho hai nhà máy đường Phụng Hiệp và Vị Thanh của tỉnh Cần Thơ (cũ)

[23/12/2011 21:39]

Chủ nhiệm dự án: Kỹ sư Nguyễn Thành Long; Cơ quan chủ trì: Công ty Mía đường Cần Thơ; Cơ quan phối hợp: Khoa Nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa ĐBSCL, Trung tâm Giống Nông nghiệp Cần Thơ, Trung tâm Khuyến Nông tỉnh Cần Thơ (cũ), Chi cục Bảo vệ thực vật, UBND huyện Phụng Hiệp và huyện Vị Thanh, Thời gian thực hiện: 1999 - 2001.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

            Cây mía được canh tác lâu đời ở Cần Thơ, tuy nhiên diện tích canh tác còn rải rác quanh thổ cư và ven kênh rạch chưa được tập trung thành vùng chuyên canh. Diện tích canh tác mía thay đổi từng năm theo biến động giá cả thị trường và tập trung chủ yếu ở hai huyện Phụng Hiệp và Vị Thanh (tỉnh Cần Thơ cũ).

            Các giống mía trồng trong tỉnh Cần Thơ  thay đổi theo từng vùng, trong đó các giống Co (Saccharum officinaun L), giống Co 775, Co 715 được trồng phổ biến. Một số giống mới cho chữ đường và năng suất cao như K 84-2000, ROC 16,  ROC 10, My 55-14, QĐ 11, ... được trồng rải rác ở các hộ nông dân.

            Để khai thác những vùng có khả năng thích nghi và phát triển theo hướng tập trung chuyên canh mía nguyên liệu, dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ sản xuất giống mía tốt và phát triển vùng nguyên liệu cho hai nhà máy đường Phụng Hiệp và Vị Thanh của tỉnh CầnThơ (cũ)” được thực hiện để cải tiến năng suất và chất lượng mía trong vùng nguyên liệu mía đồng thời mang lại lợi nhuận cho người trồng mía trong tỉnh, khắc phục tình trạng thiệt hại do lũ gây ra trong thời gian qua.

II. MỤC TIÊU, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

1. Mục tiêu

- Xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu mía tập trung có năng suất, chất lượng cao cho công nghiệp mía đường của tỉnh trên vùng chuyên canh mía. Từ kết quả mô hình của dự án, nhân rộng ra trên diện tích mía toàn tỉnh, hình thành vùng chuyên canh năng suất cao. Đồng thời, tạo ra sự chuyển biến về đời sống kinh tế - xã hội của người dân vùng chuyên canh mía, góp phần vào chương trình xóa đói giảm nghèo và chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở nông thôn. Từng bước hình thành mối liên kết giữa nhà máy và nông dân thông qua hợp đồng đầu tư, bao tiêu giữa nông dân  trong vùng chuyên canh mía với nhau trong hình thức tổ chức hợp tác.

- Xây dựng các mô hình mía chuyên canh năng suất cao ở các vùng trọng điểm trong tỉnh. Thông qua mô hình để hoàn thiện quy trình kỹ thuật trồng mía giống mới trên vùng đất Cần Thơ.    - Xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật cho vùng trồng mía; đồng thời đào tạo, tập huấn cho nông dân kiến thức về kỹ thuật trồng giống mía mới và các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác mía đường và  mở rộng diện tích trồng mía bằng giống mới.

  2. Vật liệu và phương pháp:

Vật liệu:

- Giống mía được mua từ Viện Nghiên cứu Mía đường Bến Cát chuyển đến các điểm xây dựng mô hình theo dự án.

- Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy bơm, xăng dầu để phục vụ công tác tưới tiêu được cung cấp tại thị trường.

3. Phương pháp

Dự án được xây dựng trên hai mô hình canh tác chính là mô hình canh tác mía lang và mô hình canh tác mía liếp.

- Phương pháp thực hiện mô hình canh tác mía lang:

+ Tạo hệ thống mương bao quanh để chống lũ và các mương nhỏ cắt ruộng mía ra làm nhiều ô nhằm  xổ phèn và cung cấp nước tưới và vận chuyển mía khi thu hoạch, trang bằng mặt ruộng, khoảng cách giữa hai hàng mía là 1 m.

+ Chuẩn bị giống: chọn hom giống tốt có đường kính tối thiểu 2 cm và có từ  2 đến 3 mắt mầm, xử lý hom bằng nước nóng (3 sôi + 2 lạnh) để diệt một số nấm bệnh trong hom mía.

+ Nguồn giống: cung cấp các giống mía ROC 16, K 84-2000, VN 84 - 4137, My 55-14 được mua từ Viện Nghiên cứu Mía đường Bến Cát là giống có năng suất, hàm lượng đường trong mía cao hơn các giống đang trồng tại địa phương.

+ Mật độ trồng: 30.000 - 40.000 hom/ha, trồng nối đuôi.

+ Phân bón cho 1 ha: Urê (300kg) + DAP (100 kg) + Kali (100 kg)

+ Tưới tiêu: cây mía rất cần độ ẩm, ở vùng đất thấp cần có hệ thống thoát nước trong mùa mưa và vào mùa khô giữ nước tưới trong mương và vừa ém phèn.

+ Thu hoạch: khi mía già, màu vỏ bóng và sậm lại, lá khô nhiều thì thu hoạch hoặc khi độ đường ở gốc và ngọn không chênh lệch 1 độ.

+ Chăm sóc mùa gốc: khi thu hoạch xong tiến hành vệ sinh ruộng mía, sau đó dùng cuốc thật bén cuốc xả 2 bên gốc theo chiều dài của hàng mía để làm đứt các rễ già và các gốc mía đâm ra ngoài hàng, bón phân lót vào gốc và lấp đất lại.  Sau đó, tiến hành chăm sóc các bước còn lại như ở vụ tơ.

- Phương pháp thực hiện mô hình canh tác mía liếp:

+  Làm đất: đào hệ thống mương liếp tưới tiêu. Liếp chiều rộng từ 6 m đến 9 m, mương có kích thướng như sau: rộng từ 1,5 đến 2,5 m, sâu mương từ 1 đến 1,5 m. Rãnh rộng từ 25 đến 30 cm, sâu từ 20 đến 30 cm, hàng cách hàng 0,9 đến 1,2m.

+ Các bước còn lại tiến hành như canh tác mía lang.

 

IV. KẾT QUẢ

Qua kết quả xây dựng hai mô hình trồng mía lưu gốc trên đất liếp và mía trồng lang trên ruộng có đê bao khép kín để tận dụng diện tích sản xuất và lưu gốc trong thời gian thực hiện dự án, kết quả đạt được như sau:

1. Kết quả xây dựng mô hình trồng mía lang:

Xây dựng mô hình sản xuất mía lang được tiến hành tại Trại Giống mía Phụng Hiệp với diện tích 10 ha, trong đó có 01 ha trồng giống ROC 16 và 09 ha trồng giống K 84-2000, mía được xuống từ tháng 02 đến tháng 03  với mô hình trồng mía lang trên ruộng có đê bao khép kín.

Qua hai vụ xây dựng mô hình sản xuất mía lang trồng trên ruộng có đê bao khép kín, kết quả như sau:

- Năng suất cây mía thấp, chữ đường bình quân 10,3 CCS.

- Chi phí đầu tư cao do phải bơm tiêu úng trong thời gian dài.

- Mô hình sản xuất mía lang không mang lại hiệu quả kinh tế.

2. Kết quả xây dựng mô hình trồng mía liếp:

Mô hình sản xuất mía liếp được xây dựng tại Trại Giống cây trồng và Vật nuôi huyện Long Mỹ với diện tích 10 ha, trồng giống K 84-2000 trên nền đất liếp, thời gian xuống giống từ tháng 2 đến tháng 3. Và tại Trại Giống mía huyện Phụng Hiệp với diện tích trồng 01 ha, trồng giống ROC 16, xuống giống vào tháng 4 nhằm cung cấp giống cho vùng nguyên liệu sau khi lũ rút.

- Trại Giống Cây trồng và Vật nuôi huyện Long Mỹ nằm trong khu vực đất phèn và bị nhiễm mặn vào các tháng mùa khô. Khi xuống giống vào tháng 2 trong điều kiện không có nước tưới và nền đất bị nhiễm phèn và mặn nên mía không phát triển và do đặc tính giống K 84-2000 phát triển chậm trong giai đoạn đầu. Nông dân trong vùng dự án không chấp nhận giống K 84-2000 nên không nhân rộng ra như dự kiến.

Vụ gốc năm 2000 do bị ảnh hưởng của lũ gây thiệt hại trên 80% diện tích mía lưu gốc.

Mô hình trồng trồng mía liếp tại Trại Giống Cây trồng và Vật nuôi huyện Long Mỹ không mang lại hiệu quả.

- Tại Trại Giống mía huyện Phụng Hiệp xuống giống 01 ha ROC 16 vào tháng 4 nhằm mục đích nhân giống cung cấp cho vùng nguyên liệu, nhưng do giống mới nên nông dân chưa chấp nhận vì vậy không thể nhân rộng ra. Đến vụ gốc năm 200 do bị ảnh hưởng lũ gây thiệt hại trên 90% diện tích.

3. Kết quả đầu tư ra dân:

- Vụ sản xuất 1999 - 2000:

Dự án đã đầu tư 175,064 tấn mía giống K 84-2000 cho các hộ nông dân trồng mía Hợp tác xã Nông nghiệp Hòa Tiến (xã Tân Phước Hưng) và 08 hộ dân thuộc các xã Phụng Hiệp, Hiệp Hưng, Phương Phú trong vùng mía nguyên liệu nhà máy đường Phụng Hiệp với tổng diện tích 20 ha.

Các hộ dân đã triển khai theo mô hình canh tác mía liếp lưu gốc có đê bao khép kín, kết quả bước đầu rất khả quan, mía phát triển tốt trên vùng đất bị nhiễm phèn và chịu được ngập trong thời gian dài hơn so với giống mía địa phương (Co 775, Co 715,...), năng suất thu được bước đầu 105 tấn/ha.  Năm 2000, vùng mía nguyên liệu tỉnh Cần Thơ bị ngập lũ sớm và kéo dài trên 3 tháng và độ sâu trên 30 cm nên một phần mía bị chết. Sau khi lũ rút nông dân thu hoạch mía đạt chữ đường trên 10 CCS và không bị trổ cờ.

Đây là giống mía chín muộn, thời gian đầu sinh trưởng chậm, thích nghi được trong điều kiện đất phèn và chịu được ngập lâu hơn các giống mía địa phương, cho năng suất và chữ đường cao, mang lại hiệu quả kinh tế so với tập quán canh tác mía - lúa tại địa phương.

- Vụ sản xuất 2000 - 2001:

            Dự án đã đầu tư ra dân các xã Vĩnh Viễn, Lương Tâm (Long Mỹ), xã Hỏa Lựu, Hỏa Tiến (Vị Thanh), Hiệp Hưng, Tân Phước Hưng (Phụng Hiệp) trong vùng nguyên liệu mía của hai nhà máy đường Phụng Hiệp và Vị Thanh với tổng số 106 tấn gồm các giống K 84-2000, ROC 16 và VN 84-4137.

            Sau một vụ sản xuất bước đầu các giống mía này tương đối thích nghi trên mô hình sản xuất mía liếp có đê bao trong vùng của hai nhà máy đường Phụng Hiệp và Vị Thanh, đạt năng suất và chữ đường cao.

            Giống ROC 16 bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao, cho năng suất từ 120 đến 140 tấn/ha, chữ đường từ 11 đến 12 CCS, đây là giống chín trung bình, mía phát triển nhanh trong giai đoạn đầu, đẻ nhánh nhiều, tỷ lệ trổ cờ từ 20 đến 30%, được nông dân chấp nhận.

            Giống VN 84-4137 là giống chín sớm, có thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng đẻ nhánh mạnh, phát triển tốt trên đất cao, cây nhỏ cho năng suất thấp, trổ cờ nhiều khoảng 80%, chữ đường cao từ 12 đến 13 CCS thích hợp cho việc thu hoạch vào đầu vụ sản xuất đường.

4. Kết quả chuyển giao khoa học kỹ thuật:

            Trong thời gian thực hiện, dự án mở 12 lớp tập huấn cho 1.200 nông dân 3 xã của huyện trong vùng nguyên liệu mía với nội dung: giới thiệu các giống mía mới thích nghi cho từng vùng sinh thái,   kỹ thuật canh tác các giống mía mới theo mô hình canh tác mía liếp, qui trình chăm sóc, bón phân....; phát hành trên 10.000 tài liệu cho nông dân (kỹ thuật trồng mía, giới thiệu giống mía, bướm sâu, bệnh, kỹ thuật canh tác mía liếp lưu gốc, bón phân...).

V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:

Qua 2 năm thực hiện, Ban chủ nhiệm dự án đã đưa ra một số kết luận sau:

- Mô hình sản xuất mía lang: không mang lại hiệu quả kinh tế do chi phí đầu tư lớn, đất bị ẩm thấp, tỷ lệ nẩy mầm thấp và bị ngập vào mùa lũ.

- Mô hình sản xuất mía liếp: bước đầu mang lại hiệu quả đối với những vùng trũng thấp, nhiễm phèn và bị ngập theo mùa lũ, có đê bao khép kín chủ động được nguồn nước tưới khi mía trong giai đoạn đầu và tiêu nước tốt trong mùa lũ.

Trên những vùng bị nhiễm mặn trong mùa khô và thường bị ngập vào mùa lũ bước đầu không mang lại hiệu quả, có thể do thời vụ không thích hợp, giống mía không thích nghi.

- Mô hình sản xuất mía liếp trong các hộ dân: chủ động được nước, không bị ảnh hưởng bởi lũ và thời vụ xuống giống thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao do mía lưu gốc không phải tốn chi phí hom giống. Mía có năng suất cao (trên 100 tấn/ha) và chữ đường cao nhất là giống ROC 16 (11 - 12 CCS), giống K 84-2000 (trên 10 CCS) trên vùng mía nguyên liệu Nhà máy đường Phụng Hiệp.

2. Kiến nghị:

Dự án bước đầu đã mang lại hiệu quả tương đối. Tuy nhiên còn một số hạn chế, Ban chủ nhiệm dự án đề nghị:

-  Tiếp tục đầu tư để nghiên cứu trồng thêm một số giống triển vọng.

- Hỗ trợ công ty Mía đường Cần Thơ tiếp tục nghiên cứu, chọn lọc các giống mía tốt thích hợp với vùng sinh thái Cần Thơ.

- Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì chương trình phát triển mô hình trồng mía chuyên canh lưu gốc có đê bao khép kín.

Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Xem thêm
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ