SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Kỹ thuật canh tác tổng hợp làm tăng khả năng chống chịu bệnh vàng lá gân xanh của cam, quýt và hạn chế sự phát triển của bệnh

[23/12/2011 22:50]

Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Bảo Vệ; Cơ quan thực hiện: Khoa Nông Nghiệp, trường Đại học Cần Thơ; Thời gian thực hiện: 1999-2001

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tính đến năm 1995, diện tích cây cam quýt ở Cần Thơ có đến 16.526 ha. Tuy nhiên, đến năm 1996, diện tích vườn cam quýt đã giảm xuống còn 15.233 ha. Do vườn cam quýt bị bệnh nặng gây thất thu, nông dân chuyển qua trồng những loại cây ăn trái khác. Một trong những bệnh quan trọng nhất đó là bệnh vàng lá gân xanh (VLGX). Theo kết quả điều tra của Phạm Văn Kim (1997), năm 1995 có khoảng 20,5% cây bị bệnh, và con số này gia tăng đáng kể trong năm 1996 là 57,7% nên tỷ lệ cây mạnh giảm từ 53,2% năm 1995 xuống còn 23,6% năm 1996. Đến nay chưa có giống cam quýt nào kháng được bệnh VLGX và cũng chưa có thuốc trị hữu hiệu được chấp nhận. Cách đối phó duy nhất là phòng ngừa và làm cho cây sung mãn để khu trú bệnh. Khi có biện pháp canh tác thích hợp, bệnh không có cơ hội lan rộng và mầm bệnh bị cô lập và thu hẹp lại dần, thì ngành trồng cam quýt có thể phục hồi.

II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

1. Mục tiêu:

- Để loại dần mầm bệnh ra khỏi vườn cam quýt đã nhiễm bệnh.

- Tìm ra một dung dịch dinh dưỡng thích hợp để khắc phục triệu chứng VLGX và nhỏ lá của cam quýt.

- Thử nghiệm qui trình canh tác tổng hợp làm tăng khả năng chống chịu bệnh VLGX của cam quýt và giảm sự bộc phát của bệnh.

2. Nội dung:

- Điều tra vườn cam quýt của nông dân để tìm mối tương quan giữa biện pháp canh tác và cường độ của bệnh VLGX trên cam quýt.

- Thử nghiệm các dạng và liều lượng dung dịch dinh dưỡng nhằm khắc phục triệu chứng VLGX và nhỏ lá trên những cây cam quýt mới có triệu chứng bệnh.

- Áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp gồm: giúp cho bộ rễ phát triển khoẻ mạnh, hạn chế sự phát tán triệu chứng VLGX. Một số kỹ thuật khác giúp cây khỏe mạnh (phun dung dịch dinh dưỡng SO4-(Zn+Mn) 2 tháng một lần với nồng độ là 5.000 ppm. Trung bình mỗi điểm thí nghiệm được phun 11 lần. Phun phân bón lá Complate với liều lượng 30 ml cho bình 8 lít. Ba tuần phun một lần. Trung bình mỗi điểm thí nghiệm có 32 lần phun Complate. Công thức phân bón cho cây từ 2 năm tuổi trở xuống như sau: 150-100-60. Còn những cây trên 2 năm tuổi được bón theo công thức 250-200-120).

3. Phương pháp thực hiện:.

-Điều tra vườn cam quýt của nông dân (ND) điều tra có định hướng gồm hai đối tượng:vườn ND ít hoặc không bị bệnh và vườn ND bị bệnh nhiều. Chọn vườn cam quýt còn tơ và đang ổn định cho trái.

- Sử dụng các dưỡng chất trong việc phòng ngừa và khắc phục triệu chứng VLGX trên cam mật, quýt đường ở các mức độ tuổi cây, cấp độ bệnh 7 nghiệm thức: Humic acid- (Zn+Mn) nồng độ 5000 ppm, 2500 ppm; EDTA- (Zn+Mn) nồng độ 5000 ppm, 2500 ppm, Sulphate- (Zn+Mn) nồng độ 5000 ppm, 2500 ppm.

- Thí nghiệm ở 10 vườn cam quýt của nông dân trồng cam mật, quýt đường và cam sành, có tuổi từ mới trồng đến trưởng thành, có 1-2 công/mỗi vườn được chọn làm thí nghiệm áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp, diện tích còn lại được nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác riêng của mình dùng để làm đối chứng.

III.KẾT QUẢ THỰC HIỆN:

1.Kết quả điều tra vườn cam quýt của nơng dn

- Nhân giống và sự xuất hiện bệnh VLGX trên cam quýt

Kết quả điều tra và khảo sát cho thấy, khả năng nhiễm bệnh VLGX ở những vườn ít bệnh thường áp dụng phương pháp nhân giống bằng cách chiết hay trồng hột. Nhóm vườn bệnh ít có các tỷ lệ bệnh là: nhân giống bằng chiết là 69%, phương pháp nhân giống bằng tháp có tháp cành 6% và tháp bo 12%, vườn nhân giống bằng hột chiếm tỷ lệ 13%. Ở nhóm vườn ít bệnh có tỷ lệ nhân giống bằng chiết và hột là 82%, trong khi ở nhóm vườn bệnh nhiều tỷ lệ này là 53%. Ngược lại, phương pháp tháp ở nhóm vườn bệnh ít là 18%, còn ở nhóm vườn bệnh nhiều là 37%. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả là bệnh VLGX không truyền qua con đường hột.

- Chỉ tiêu chọn cây mẹ để nhân giống: các vườn bệnh ít, chọn cây lá to, xanh tỷ lệ 31%, trái đẹp tỷ lệ 30%, chọn tuổi cây từ 3-5 tuổi có 46%.

- Nguồn cây giống: đa số các hộ ở vườn bệnh ít chọn giống từ vườn nhà, tỷ lệ chiếm đến 62%, trong đó mua ở vườn quanh xóm 30% và mua từ các ghe bán  giống trôi nổi chỉ 3%.

- Phòng trị rầy chổng cánh và sự xuất hiện bệnh VLGX trên cam quýt:

+ Sử dụng thuốc: hầu hết nông dân vẫn còn sử dụng thuốc gốc lân hữu cơ, các vườn bệnh ít có tỷ lệ vườn sử dụng Methyl Parathion 50ND là 15%, Thuốc Basudin có 27%, thuốc Azodrin 40ND, có 35% số hộ sử dụng.

 Thuốc Carbamate nhìn chung nông dân sử dụng với số lượng nhiều hơn. Ở các vườn bệnh ít, tỷ lệ sử dụng: Bassa 50ND 57%, thuốc Furadan LD50 là 50%.

Nông dân sử dụng nhiều thuốc gốc cúc hơn các nhóm khác. vườn bệnh ít tỷ lệ sử dụng  thuốc Sherpa 25EC 61%, thuốc Decis 25EC 57%, thuốc Sumi-alpha 10EC là 60%.

Với thuốc sinh học cũng có khá nhiều nông dân sử dụng. Đa số các vườn bệnh ít sử dụng thuốc Trebon 10EC 65%.

+ Phương pháp phòng trị rầy chổng cánh và sự xuất hiện bệnh VLGX:

* Biện pháp diệt kí chủ phụ: đa số nông dân ở vườn bệnh ít không có trồng cây ký chủ phụ. Tỷ lệ hộ biết ký chủ phụ của rầy chổng cánh ở các vườn bệnh ít chiếm 69%.

* Hạn chế sự di chuyển của rầy: đa số các vườn bệnh ít đều có trồng cây chắn gió, chiếm 75%. Kết quả cho thấy, đa số nông dân không biết rằng trồng cây chắn gió sẽ hạn chế sự di chuyển của rầy. Thông thường, các chủ vườn có quan tâm đến nghề trồng cam thì luôn chú trọng đến việc trồng xen nên bệnh ít xuất hiện trong vườn hơn.

 * Sự loại bỏ mầm bệnh: loại bỏ cành bệnh, đốn bỏ cây bệnh. Đa số các vườn bệnh ít đều thực hiện việc loại bỏ cành bệnh, tỷ lệ này chiếm 97%. Ở các vườn bệnh ít, tỷ lệ đốn bỏ cây bệnh khi cây bị bệnh cấp ba chiếm 94% một số nông dân tiến bộ, chịu tiếp thu theo khuyến cáo của cán bộ khuyến nông, mạnh dạn tỉa bỏ cành bệnh. Chính vì vậy mà vườn họ có kết quả tốt.

- Kỹ thuật làm cây sung mãn:

+ Bón phân: việc sử dụng phân đa lượng ở các vườn bệnh ít khá cân đối. Có đến 70% hộ sử dụng đạm liều lượng từ 150-200 kg N/năm, 54% hộ sử dụng lân liều lượng từ >40 kg P2O5/năm và 73% số hộ sử dụng kali liều lượng từ 150-200 kg K2O /năm. 

+ Chiều sâu mực nước trong mương và bờ bao ngăn lũ: ở các vườn bệnh ít, mực nước trong mương  >40 cm chiếm tỷ lệ 97%. Giữ mực nước trong mương vườn luôn cách mặt liếp 60 cm là tốt nhất. Nhóm vườn bệnh ít, tỷ lệ vườn có bờ bao là 94% chỉ có 6% số vườn là không có bờ bao.

 + Giữ cỏ trong vườn: tỷ lệ vườn không làm cỏ ở nhóm vườn bệnh ít cao hơn nhiều so với nhóm vườn bệnh nhiều và nông dân cho rằng nuôi cỏ trong vườn giúp cho cây mạnh khỏe hơn vì cỏ làm cho đất được tơi xốp, thông thoáng hơn, cỏ làm mát gốc cây giúp cho đất giảm hiện tượng lèn mặt. 

+ Bồi sình non: ở nhóm vườn bệnh ít, đa số vườn đều được bồi sình non mỗi năm 1 lần chiếm tỷ lệ đến  88%.

 

2. Hiệu quả của một số dưỡng chất phòng ngừa,khắc phục triệu chứng VLGX trên  cam mật, quýt đường,

- Hiệu quả của dưỡng chất Zn+Mn: triệu chứng VLGX hồi phục đạt đỉnh cao ở tuần 6 và 7, ở tuần 6, tỷ lệ chồi hồi phục đạt cực đại và hồi phục hoàn toàn. Các chồi mang lá biểu hiện triệu chứng VLGX ở giai đoạn sơ khởi và có tuổi lá chưa già thì sự phục hồi nhanh. Vào tuần 7, dưỡng chất Humic acid-(Zn+Mn) 5000 ppm có tỷ lệ chồi hồi phục là 44,66%. Ở dung dịch Sulpphate-(Zn+Mn) vào tuần 7 đạt tỷ lệ chồi hồi phục 31,62% ở cùng nồng độ 5000 ppm.

Humic acid-(Zn+Mn) luôn tỏ ra ưu thế hơn so với EDTA-(Zn+Mn) và Sulphate-(Zn+Mn) ở cả hai  nồng độ 5000 ppm và 2500 ppm

- Ảnh hưởng của Sulphate - (Zn + Mn)  đến cam mật, quýt đường có tuổi cây và mức độ bệnh khác nhau:

Cam mật:

- Trên cây tơ: so sánh kết quả giữa các tuần thì có hiệu quả nhất và tỷ lệ chồi hồi phục tiếp tục tăng và đạt cao nhất với mức độ bệnh sơ khởi ở tuần thứ 7, trong đó ở nghiệm thức phun dưỡng chất 5000 ppm, tỷ lệ chồi hồi phục là 89,3% và 2500 ppm là 68,8%. Đây là thời điểm quan trọng để đánh giá hiệu quả của việc áp dụng dưỡng chất.

  mức độ bệnh trung bình: tuần 5 và 6 có tỷ lệ chồi hồi phục ở nghiệm thức phun với nồng độ 5000 ppm là 45,7% và 56,0%, nồng độ 2500 ppm là 43,9% và 56,9%.

          - Trên cây cho trái: có hiệu quả và tỷ lệ chồi hồi phục đạt cao nhất ở tuần 7 với mức độ bệnh sơ khởi, trong đó có nghiệm thức 5000 ppm có tỷ lệ chồi hồi phục là 72,3%.

  mức độ bệnh trung bình đạt cao nhất thì tuần 7 là tuần mà tỷ lệ chồi hồi phục đạt cao nhất, ở nồng độ 2500 ppm là 37%, ở nồng độ 5000 ppm là 41,3%.

- Trên cây 2 tuổi: chồi hồi phục có xử lý dưỡng chất tăng dần từ tuần 2, đạt tỷ lệ chồi hồi phục cao nhất ở tuần thứ 7 và sau đó giảm dần ở những tuần kế tiếp.

Quýt đường:

- Trên cây tơ:  mức độ bệnh sơ khởi, tỷ lệ chồi hồi phục tiếp tục tăng và đạt cao nhất ở tuần 7. Ở nồng độ 5.000 ppm, tỷ lệ chồi hồi phục đạt cao nhất ở tuần 7 là 68,3%. Ở nồng độ 2.500 ppm là 58,3%.

 Ở mức độ bệnh trung bình đạt cao nhất vào tuần 7, với nồng độ 2.500 ppm, tỷ lệ chồi hồi phục ở tuần 7 là 35,7% và 5.000 ppm là 52,0%.

- Trên cây cho trái: ở mức độ bệnh sơ khởi thì tuần 7 tỷ lệ hồi phục đạt cao nhất, nồng độ 2.500 ppm có tỷ lệ chồi hồi phục là 35,7% và nồng độ 5.000 ppm là 48,7%

  mức độ bệnh trung bình thì vào tuần 7 có tỷ lệ chồi hồi phục đạt cao nhất ở nồng độ .500 ppm tỷ lệ chồi hồi phục là 35,7%, ở nồng độ 5.000 ppm là 44,3%.

- Trên cây 2 tuổi: tỷ lệ chồi hồi phục của cây tơ tăng dần qua các tuần và đạt cao nhất vào tuần 6 là 14,75%.

3. Kết quả thí nghiệm trên mộ số vườn nông dân sau khi áp dụng biên pháp canh tác tổng hợp (BPCTTH)

- Vườn của ông Nguyễn Văn Vốn: vườn quýt đường đã được 3 tuổi, cây con được chiết từ các cây lớn còn lại trong vườn, tình trạng cây phát triển trung bình.

Kết quả thí nghiệm ở lô có áp dụng BPCTTH tỷ lệ cây bị nhiễm VLGX có chiều hướng giảm. Lúc bắt đầu tỉ lệ cây bị VLGX là 16,7%, sau khi kết thúc chỉ còn 10%, trong khi ở lô đối chứng thì tỉ lệ cây nhiễm bệnh có chiều hướng gia tăng lúc bắt đầu chỉ có 16,7% lúc kết thúc là 20%. Tổng số chồi bệnh/cây ở lô có áp dụng BPCTTH thì số chồi bệnh/cây khi kết thúc thí nghiệm là 5 chồi, ở lô không đối chứng số chồi bệnh/cây là 47,7 chồi.

- Vườn của ông Nguyễn Thanh Phong (vườn cam mật cây đã được hai tuổi): đối với cây có áp dụng BPCTTH khi thí nghiệm kết thúc số cây bị triệu chứng VLGX hoàn toàn không có, trong khi đó ở lô đối chứng tỉ lệ này có chiều hướng gia tăng từ 10 lên đến 13,3%. Tỉ lệ chồi bệnh chồi bệnh trên cây có bệnh cũng tăng theo, khi bắt đầu thí nghiệm chỉ có 3,32% đến khi kết thúc là 6,05%.

- Vườn của ông Lê Bá Phước (vườn cam sành): ở lô có áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp sau thời gian chăm sóc cây bị bệnh VLGX được loại trừ dần, còn ở lô đối chứng do không áp dụng biện pháp canh tổng hợp tỉ lệ cây bị bệnh có chiều hướng tăng dần (10%) và số chồi bệnh cũng tăng theo (21,2%).

- Vườn của ông Trần Văn Bé (vườn cam mật, 3 tuổi): ở lô có áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp cây bị nhiễm VLGX được loại trừ, khí bắt đầu thí nghiệm tỉ lệ cây bị bệnh chiếm 13,3 % nhưng đến khi thí nghiện kết thúc các cây bị bệnh không còn chồi bệnh hiện diện trên cây. Trong khi đo, ở lô đối chứng giai đoạn đầu có 20 % cây bị bệnh nhưng đến lúc thí nghiệm kết thúc là 25% và số chồi bệnh trên cây cũng tăng theo từ 5,35% lên đến 9,49%.

- Vườn của ông Nguyễn Văn Hiểu (vườn cam mật và cam sành): đối với cây có áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp tình trạng cây bị VLGX được khắc phục hoàn toàn, tỉ lệ cây bị VLGX ở giai đoạn đầu thí nghiệm  là 13,3 %, tỉ lệ chồi bệnh là 1,4%. Kết thúc thí nghiệm trong 30 cây theo dõi không còn cây nào có biểu hiện VLGX, nhưng ở lô đối chứng thì ngược lại, tỉ lệ cây bị bệnh cũng như số chồi bệnh trên cây ngày càng tăng, lúc bắt đầu thí nghiệm tỉ lệ cây bị bệnh (10%) đến khi kết thúc tỉ lệ nầy tăng đến 13,3%, số chồi bệnh trên cây cũng có chiều hướng gia tăng từ 2,28% lên đến 4,59% và mức độ bệnh trên cây cũng tăng từ 1 đến 1,75.

- Vườn của ông Nguyễn Văn Ba (vườn quýt đường, 3 tuổi, tình trạng cây phát triển trung bình): tỉ lệ cây bị bệnh, số chồi bệnh, cấp bệnh cũng giống như ở vườn ông Hiểu. Đối với lô thí nghiệm có áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp thì tỉ lệ nầy có chiều hướng giảm và không còn cây bị bệnh khi thí nghiệm kết thúc. Còn ở lô không áp dụng biện pháp canh tác thì tỉ lệ cây bị bệnh tuy không tăng (13,3%) nhưng số chồi bệnh trên cây vẫn tăng  từ 4,24% cho đến khi thí nghiệm kết thúc là 7,08%.

- Vườn của ông Lê Văn Tám (vườn cam mật và cam sành): ở lô đối chứng tỉ lệ cây bị bệnh ngày càng tăng (từ 13,3% đến 16,7%), phần trăm chồi bệnh trên cây tăng từ 5,96 đến 9,56%. Trong khi đó với lô thí nghiệm áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp thì tỉ lệ cây bị bệnh từ 16,7% giảm hẳn xuống không còn cây nào có triệu chứng VLGX. Như vậy với biện pháp canh tác tổng hợp cây phát triển ngày càng tốt đẩy lui dần bệnh VLGX ra khỏi vườn.

- Vườn của ông Nguyễn Văn Tiếp (vườn quýt đường): những cây trong lô đối chứng tỉ lệ cây nhiễm bệnh từ lúc bắt đầu thí nghiệm cho đến lúc kết thúc có chiều hướng giảm dần (từ 13,3% còn 10%). Song song theo đó, phần trăm chồi bệnh trên cây cũng giảm từ 3,95% xuống còn 0,30%. Trong khi ở lô đối chứng, mặc dầu tỉ lệ cây bệnh không tăng nhưng số chồi bệnh trên cây tăng từ 6,45% lên 9,95%.

- Vườn của ông Ngô Hồng Hải (vườn cam mật, 2 tuổi): đối với lô thí nghiệm tỉ lệ cây bị bệnh ngày càng giảm, từ 13,33% chỉ còn 10% sau 2 năm, số chồi bệnh trên cây cũng giảm dần từ 3,95% chỉ còn 0,30%. Còn lô đối chứng tỉ lệ nầy lại tăng từ 10 đến 13,3% và số chồi bệnh cũng tăng theo từ 6,45% đến 9,95%.

 

IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

- Humic acid-(Zn+Mn) tỏ ra hiệu quả hơn EDTA-(Zn+Mn) và Sulphate-(Zn+Mn) trong khả năng giúp chồi hồi phục cũng như phòng ngừa triệu chứng VLGX. Khi lá biểu hiện triệu chứng VLGX ở giai đoạn sơ khởi có thể phun Humic acid-(Zn+Mn) 2500 ppm 2 lần, mỗi lần phun cách nhau một tuần. Đối với chồi biểu hiện triệu chứng VLGX khi lá non có đường kính 5 -15 mm có thể phun Humic acid-(Zn+Mn) 2500 ppm 2 lần, lần đầu lúc đường kính lá non 5 - 15 mm lần sau cách lần phun trước 1 tuần.

- Kẽm và Mangan trong dưỡng chất cung cấp qua hai lần phun giúp triệu chứng VLGX hồi phục đạt đỉnh cao ở tuần 6, 7 sau đó không tăng nữa.

- Triệu chứng VLGX trên cam mật và quýt đường có liên quan đến sự thiếu kẽm và mangan. Dưỡng chất (Zn + Mn) giúp cho lá trưởng thành khắc phục triệu chứng bệnh khá tốt, cũng như làm chậm sự xuất hiện triệu chứng VLGX ở chồi non, dù hiệu quả chưa cao.

- Phun Sulphate - (Zn + Mn) với nồng độ 5000 ppm giúp cho chồi hồi phục cao nhất, đặc biệt là trên cam mật và quýt đường còn tơ và khi bệnh vừa mới xuất hiện ở mức độ sơ khởi. Tỷ lệ hồi phục là 89,3% và 68,3% sau 7 tuần phun thuốc nhưng sau đó giảm dần.

Sulphate - (Zn + Mn) cung cấp qua hai lần phun đầu giúp triệu chứng VLGX hồi phục đạt đỉnh cao nhất ở tuần 6, 7. Tuy nhiên, phun thuốc lần 3 sau tuần 8 không giúp cho cây khắc phục triệu chứng VLGX đáng kể.

- Ở cùng mức độ bệnh, cây tơ khả năng hồi phục luôn cao hơn cây cho trái. Khi xét ở cùng một tuổi cây, những cây có bệnh ở mức độ sơ khởi hồi phục tốt hơn cây có bệnh ở mức độ trung bình.

- Áp dụng biện pháp canh tác tổng hợp rất có hiệu quả trên các thí nghiệm tại vườn nông dân.

2. Đề nghị

- Tuy phun Sulphate - (Zn + Mn) có làm giảm triệu chứng VLGX ở lá trưởng thành cũng như làm chậm sự xuất hiện triệu chứng VLGX ở lá non trên cam mật và quýt đường, nhưng sau đó triệu chứng bệnh vẫn xuất hiện trở lại. Do đó, biện pháp tốt nhất vẫn là loại bỏ cành bệnh ra khỏi vườn càng sớm càng tốt.

- Tuy nhiên, việc khuyến cáo phải đốn bỏ toàn bộ những vườn cam quýt đang nhiễm bệnh cũng là một vấn đề của xã hội, rất khó thực hiện trong nông dân. Vì thế để giải quyết những vườn bị nhiễm bệnh mà chưa đốn bỏ toàn bộ, có thể khuyến cáo nông dân bổ sung thêm Zn + Mn giúp cây chống chịu được bệnh hoặc làm khu trú bệnh. Nhưng phải triệt để diệt rầy chổng cánh để ngăn ngừa sự lan truyền bệnh. 

- Bệnh VLGX không thể phòng trị riêng lẽ từng hộ mà có kết quả. Cũng không thể thuyết phục mọi người dân đốn bỏ cùng lúc cây có múi. Do đó, cần phải “xã hội hóa” biện pháp canh tác tổng hợp để người dân loại dần mầm bệnh ra khỏi vùng sản xuất thì mới khôi phục được ngành trồng cây của ĐBSCL.

Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Xem thêm
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ