Vận dụng và bước đầu đánh giá hiệu quả của phương pháp giáo dục chủ động trong lĩnh vực phòng chống hút thuốc lá ở học sinh trung học phổ thông.
Chủ nhiệm đề tài: Bác sĩ Huỳnh Văn Thanh, Bác sĩ Lê Thành Tài; Cơ quan chủ trì: Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Cần Thơ; Cơ quan phối hợp: Sở Y tế Cần Thơ; Đại học Y Dược Cần Thơ; Tỉnh đoàn Cần Thơ, Thời gian thực hiện: 2001 - 2003
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hút
thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu của bệnh tật và tử vong. Ngoài ung thư phổi,
thuốc lá còn gây ra nhiều ung thư khác như thanh quản, họng, dạ dày, thận, bang
quang và gây ra nhiều loại bệnh khác, đặc biệt là bệnh về tim mạch.
Tác hại của
thuốc lá không chỉ gặp ở những người hút thuốc lá thường xuyên mà cả những
trường hợp hút thỉnh thoảng, đã bỏ hút hoặc không hút (hút thụ động).
Vấn
đề bức xúc hiện nay là tần xuất hút thuốc lá ở thanh thiếu niên luôn cao và
tuổi khởi đầu hút ngày một sớm hơn. Đây là một vấn đề đáng báo động, cần có biện pháp can thiệp vì hút càng
sớm tử vong càng cao và vô cùng hao phí. Hút thuốc lá sớm không phải chỉ thấy
ngoài xã hội mà cả trong trường học - nơi đào tạo nhân tài cho thế hệ tương
lai.
Ở
Việt Nam, cho đến nay việc nghiên cứu những đặc điểm dịch tễ của hiện tượng hút
thuốc lá trong học đường và biện pháp
giáo dục cho hiệu quả vẫn còn bỏ ngỏ. Nghiên cứu này mong muốn khởi đầu cho
những nét dịch tễ chính của hiện tượng hút thuốc lá trong các trường trung học
phổ thông để đề ra biện pháp giáo dục dựa trên cơ sở của phương pháp giáo dục
cộng đồng,
II. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.
Mục tiêu: xác định những đặc điểm dịch tễ của hiện tượng hút thuốc lá trong
các trường THPT tỉnh Cần Thơ (cũ), từ đó, đề ra chương trình giáo dục chủ động
phòng chống và đánh giá hiệu quả của chương trình từ đó nhân rộng mô hình.
2.
Phương pháp nghiên cứu:
-
Đối tượng nghiên cứu: học sinh THPT tỉnh Cần Thơ (cũ)
-
Thiết kế nghiên cứu:
+ Giai đoạn 1: nghiên cứu cắt ngang.
+ Giai đoạn 2: nghiên cứu can thiệp.
- Mẫu và cỡ nghiên cứu:
+
Mẫu nghiên cứu:
Giai
đoạn 1 (nghiên cứu cắt ngang): mẫu được chọn từ các học sinh nam trường THPT
công lập và bán công trong toàn tỉnh Cần
Thơ (cũ).
Giai
đoạn 2 (nghiên cứu can thiệp): chọn khối 10 và khối 11 của hai trường được chọn là THPT bán công Vị
Thanh (nhóm can thiệp) và trường THPT bán công Phụng Hiệp (nhóm chứng) vì hai
huyện có những điều kiện kinh tế, xã hội không quá chênh lệch nhau và tương đối
cách xa để học sinh nơi không có điều kiện liên hệ với nhau gây nên nhiễu thông
tin.
+ Cỡ mẫu:
Giai đoạn 1: cỡ mẫu được tính theo công thức:
n=1,962
trong
đó:
p: tần suất hút thuốc lá ở học sinh nam (p= 0,15 qua khảo
sát ban đầu).
d: sai số tương đối,
do vậy: n=2.177 học sinh
lấy mẫu 2.200 HS đê trừ hao hụt).
Số HS được chia đều cho 07 huyện, thị, thành của tỉnh Cần
Thơ (cũ). Mỗi nơi chọn khoảng 320 đến 330 HS, tương đương 13 đến 18 lớp (mỗi
lớp từ 18 đến 25 HS nam). Số này được chia cho nửa nhóm ở công lập và nửa nhóm
ở trường bán công (mỗi nơi chia đều cho các lớp khối 10 và 11).
Giai đoạn 2: cỡ mẫu có thể được tính theo
công thức:
n =
n: cỡ mẫu nghiên cứu cần cho từng nhóm
a : sai lầm loại 1, Za = 1,645
(a = 0.05
b: sai lầm loại 2, Zb = 1,282 (b =0.10
po: tần suất hút thuốc lá trước khi
can thiệp (po=0,15)
p1: tần suất hút thuốc lá sau khi
can thiệp (p1= 0,075)
R: nguy cơ tương đối, R= 0,075/0,15 = 0,5
PR: trung bình cộng của po
và p1, pR=0,1125
qR:1-pR = 0,8875.
Suy ra: n = 254
Cỡ mẫu
tối thiểu đối với từng nhóm là 254 HS. Do quá trình theo dõi thất thoát có thể
xảy ra nên cỡ mẫu chọn tối thiểu là 270 HS, tương ứng với 12 lớp.
-
Hoạt động can thiệp:
+ Chuẩn bị giáo viên.
+ Xây dựng chương trình huấn luyện đại diện
học sinh
+ Tuyển
chọn và huấn luyện cho nhóm đại diện học sinh.
+ Nhóm đại diện HS tiến hành giáo dục bạn bè
và tổ chức các hoạt động chống hút thuốc lá trong nhà trường.
+ Sinh hoạt định kỳ của Câu lạc bộ phòng chống
thuốc lá.
- Công
cụ nghiên cứu: gồm bảng câu hỏi, bảng nhận xét của những đại diện học sinh về
tình trạng hút thuốc lá của từng học sinh và mẫu thử nicotin trong nước tiểu.
III. KẾT QUẢ:
1.
Giai đoạn khảo sát cắt ngang:
Qua kết quả điều tra 07 trường Bán công
(BC) và 07 trường Công lập (CL) ở 7 huyện và và thành phố Cần Thơ (cũ), kết quả ghi nhận như sau:
- Tỉ lệ hút thuốc lá ở nhóm BC cao hơn CL
Trường
|
HS không hút thuốc
lá
|
HS hút thuốc lá
|
Công lập
|
813 chiếm 72,7%
|
306 chiếm 27,3%
|
Bán công
|
770 chiếm 68,9%
|
348 chiếm 31,1%
|
- Tỷ lệ hút
cao dần theo số tuổi và cấp lớp:
Cấp lớp
|
HS không hút thuốc
lá
|
HS hút thuốc lá
|
10
|
537 chiếm 74,9%
|
180 chiếm 25,1%
|
11
|
539 chiếm 72,5%
|
204 chiếm 27,5%
|
12
|
511 chiếm 65,7%
|
267 chiếm 34,3%
|
- Tình trạng hút thuốc của cha, anh em, bạn
bè có liên quan đến hành vi hút thuốc lá của HS:
Cha
|
HS không hút thuốc
lá
|
HS hút thuốc lá
|
Hút thuốc
|
1.041 chiếm 68,8%
|
473 chiếm 31,2%
|
Không hút
|
447 chiếm 74,5%
|
153 chiếm 25,5%
|
-
Tỷ lệ HS hút thuốc lá giảm dần theo kết quả học tập
tốt:
Kết quả học tập
|
HS không hút
|
HS đang hút
|
Kém
|
124 chiếm(61,7%)
|
77 chiếm 38,3%
|
Trung bình
|
1.009 chiếm(69,7%)
|
438 chiếm 30,39%
|
Tốt
|
397 chiếm 77,4%
|
116 chiếm 22,6%
|
Tần suất hút thuốc lá của HS ở nhóm gia
đình tuyệt đối cấm thấp hơn so với nhóm gia đình chỉ nhắc nhở hoặc không quan
tâm
Gia đình
|
HS không hút TL
|
HS hút thuốc lá
|
Chỉ nhắc nhở, không ý kiến
|
529 chiếm 63,5%
|
304 chiếm 36,5%
|
Tuyệt đối cấm
|
1.015 chiếm 74,7%
|
343 chiếm 25,3%
|
2. Giai đoạn can thiệp:
Hoạt động
can thiệp được tiến hành ở giai đoạn 2 bằng chương trình giáo dục cộng đồng.
Phương pháp giáo dục cộng đồng sử dụng nguyên lý giáo dục giữa những người đồng trang lứa,
đồng cảnh ngộ được thấy rất hiệu quả trong giáo dục hành vi. Chương trình bao
gồm tập huấn kiến thức và một số kỷ năng như tuyên truyền làm chủ bản thân, từ
chối thuốc lá và cách tổ chức hoạt động phòng chống thuốc lá cho lực lượng đại
diện học sinh. Sau đó, đại diện học sinh được tập hợp vào CLB phòng chống thuốc
lá của nhà trường để hoạt động đều đặn suốt năm học.
- So sánh hành vi hút thuốc ở nhóm can
thiệp ở đầu và cuối năm học
Nhóm can thiệp
|
Không hút thuốc
|
Đang hút thuốc
|
Tổng
|
Đầu năm học
|
186 (67,6%)
|
89 (32,4%)
|
275 (100%)
|
Cuối năm học
|
200 (79,7%)
|
51(25,3%)
|
251 (100%)
|
- So sánh
hành vi hút thuốc ở nhóm chứng ở đầu và cuối năm học
Nhóm chứng
|
Không hút thuốc
|
Đang hút thuốc
|
Tổng
|
Đầu năm học
|
184 (68,4%)
|
85 (31,6%)
|
269 (100%)
|
Cuối năm học
|
142 (57,5%)
|
105 (42,5%)
|
247 (100%)
|
Sau hoạt động can thiệp,
có sự chuyển biến về bản thân, đặc biệt khả năng làm chủ và thái độ từ chối
thuốc lá. Những tác động đã làm chuyển biến hành vi hút ở nhóm can thiệp (tỉ lệ
hút đã giảm từ 32,4% xuống còn 25,3%). Trong khí đó, nhóm chứng do không có
những tác động tích cực nên tỉ lệ hút thuốc lá đã tăng lên (từ 31,% lên 42,5%).
Kết quả này
cho thấy, phương pháp giáo dục chủ động có hiệu quả hơn phương pháp truyền
thống trong giáo dục hành vi hút thuốc của học sinh thông qua cải thiện khả
năng làm chủ bản thân và thái độ từ chối thuốc lá. Kết quả hoàn toàn tương xứng
với những nổ lực hoạt động giáo dục cộng đồng của các đại diện học sinh thông qua CLB phòng chống thuốc lá
trong trường học mang tên “Phổi sạch”.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1.
Kết luận:
a. Giai đoạn khảo
sát cắt ngang:
Qua
khảo sát mô tả cắt ngang, 2.258 HS ở 14 trường THPT công lập và bán công ở các
huyện, thị, thành trong tỉnh Cần Thơ (cũ), cho kết quả như sau:
-
Tỉ lệ bình quân HS hút thuốc lá qua phỏng vấn gián tiếp bằng bảng câu hỏi là
29,2%, trong đó HS trường bán công hút nhiều hơn nhóm công lập. Tỉ lệ này tăng
lên theo tuổi học và cấp lớp.
-
Tuổi khởi đầu hút thuốc là khá sớm (22% ở tuổi 15 và trước đó).
-
Tò mò và sự lôi kéo của bạn là yếu tố quan trọng nhất để các em đến với thuốc
lá và tiếp tục hút.
-
Tình trạng hút thuốc lá của cha, anh, em, thầy, bạn đều có ảnh hưởng ít nhiều
đến hành vi hút thuốc lá của trẻ. Tuy nhiên, các yếu tố như thái độ với thuốc
lá, khả năng làm chủ bản thân, tuổi của HS, sự hút thuốc lá của bạn thân, mối
liên hệ khắng khít với gia đình và tính tự hoàn thiện được khẳng định góp phần
quan trọng đến hành vi hút thuốc lá của HS.
b. Giai đoạn can
thiệp:
Qua
một năm áp dụng phương pháp giáo dục chủ động tại trường PTTH Bán công Vị Thanh
(nhóm can thiệp) so sánh với trường THPT bán công Phụng Hiệp được chọn làm nhóm
chứng. Kết quả cho thấy tỉ lệ hút thuốc lá ở trường Vị Thanh giảm đáng kể
(20,3% ở cuối năm so với 32,4% ở đầu năm), trong khi trường Phụng Hiệp tỉ lệ
hút thuốc lá cuối năm lại tăng từ 31,6% lên 42,5%. Kết quả đạt được như vậy ở
nhóm can thiệp là do phương pháp can thiệp đã tác động làm tăng mạnh thái độ từ
chối thuốc lá, khả năng làm chủ bản thân, sự tham gia các hoạt động phòng chống
thuốc lá trong trường lớp; đồng thời tạo được một phong trào chống thuốc lá
rộng rãi trong thầy cô và HS toàn trường. Trong khi đó, các yếu tố trên đã
không đựợc cải thiện ở nhóm chứng.
Phương
pháp giáo dục chủ động được thực hiện qua mô hình câu lạc bộ phòng chống thuốc
lá trong trướng học. Đây là mô hình câu lạc bộ tuyên truyền chưa từng có trong
các trường phổ thông nước ta.
2.
Kiến nghị:
- Cần có những chủ trương, biện pháp cụ thể để
đẩy mạnh chương trình phòng chống thuốc lá trong trường học.
-
Xây dựng chương trình giáo dục trong nhà trường cho HS tăng khả năng làm chủ
bản thân, thái độ từ chối thuốc lá của HS và lôi cuốn được các em vào các hoạt
động phòng chống thuốc lá trong trường là rất cần thiếr.
-
Nhà trường cần phải nghiêm khắc với hành vi hút thuốc lá của HS, đồng thời đề
nghị thầy giáo không được hút thuốc lá trước mặt HS, để giảm dần và tiến tới bỏ
thuốc.
-
Tuyên truyền, giáo dục để các HS hiểu được tác hại của thuốc lá, đặc biệt hút
thuốc lá thụ động hầu tạo được một làn sóng của những thầy cô, cô giáo và HS
không hút thuốc lá yêu cầu mạnh mẽ cho một môi trường không khói thuốc.
-
Cần tăng cường tác động đến gia đình qua Hội Cha mẹ HS và đề nghị phụ huynh
tiếp tay với nhà trường trong việc để ý và ngăn cấm con em hút thuốc lá cũng
như hạn chế tình trạng hút thuốc lá của các thành viên trong gia đình..
-
Cần thành lập CLB Phòng chống thuốc lá trong trường hoạt động theo nguyên lý
giáo dục chủ động và có mạng lưới đến từng lớp như các tổ chức đoàn, đội, hội
trong nhà trường.
-
Sở Giáo dục và Đào tạo cần có chủ trương chung về vấn đề phòng chống thuốc lá
trong HS, việc thành lập CLB Phòng chống thuốc lá trong các trường học và đưa
hoạt động CLB vào tiêu chuẩn thi đua của trường và lớp.
Với kết quả như trên, mô hình CLB
Phòng chống thuốc lá trong trường học đã được Sở Giáo dục và Đào tạo Cần Thơ
nhân rộng ra khắp các quận, huyện, trong thành phố, ở các trường THCS lẫn THPT,
công lập lẫn bán công và dân lập, trường chuyên lẫn không chuyên ban.
Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ