Năng suất chất lượng - một thập kỷ kiến tạo
Trải qua một thập kỷ triển khai Chương trình 712, bằng sự quyết tâm và nỗ lực của các Bộ ngành, cơ quan, tổ chức cùng sự chung tay của doanh nghiệp, hành trình kiến tạo năng suất chất lượng đã đạt được những cột mốc đáng nhớ, tạo tiền đề cho sự vươn lên, khẳng định vị thế trên thương trường của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Kể từ khi tham gia vào Tổ chức Năng suất châu Á (ngày 1/10/1996), vai trò và tầm quan trọng của năng suất, chất lượng đã thực sự được nhấn mạnh tại Việt Nam. Từ thập niên Chất lượng lần thứ I (1996-2005), hoạt động thúc đẩy năng suất chất lượng tại Việt Nam được hình thành, các doanh nghiệp bắt đầu quan tâm tới vấn đề cải tiến năng suất chất lượng (NSCL) và đã có những bước tiến quan trọng trên chặng đường nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, hội nhập quốc tế.
Tiếp nối thành công của Thập niên Chất lượng lần thứ I, Thập niên Chất lượng lần thứ II (2006-2015) với chủ đề “Năng suất chất lượng - chìa khóa phát triển và hội nhập” được đặt ra với mục tiêu tạo lập uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa “sản xuất tại Việt Nam”.
Ngày 21/5/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 712/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020” (Chương trình 712). Kể từ đó đến nay, bằng nhiều hoạt động thiết thực và có chiều sâu về thúc đẩy NSCL, Chương trình 712 đã giúp đỡ, kiến tạo cho hàng chục nghìn cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tìm ra hướng đi đúng đắn cho quá trình vận hành hoạt động. Chương trình cũng tạo ra chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động thúc đẩy NSCL tại Việt Nam, giúp hàng nghìn doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, uy tín trên thị trường thế giới.
Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng hiệu quả các mô hình mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, năng lực cạnh tranh.
Theo số liệu thống kê được Ban điều hành Chương trình 712 đưa ra, sau 10 năm thực hiện đến nay, đã có khoảng 15.000 doanh nghiệp được hướng dẫn áp dụng các mô hình mới để cải tiến NSCL. Nhiều doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng các Hệ thống quản lý chất lượng theo chuẩn quốc tế (ISO 9000, ISO 14000) và hệ thống các công cụ cải tiến cơ bản (như 5S, Lean hoặc Six Sigma…).
Chương trình 712 cũng đã triển khai được 10 năm ở các Bộ ngành, địa phương với nhiều kết quả nổi bật, nhiều cá nhân, doanh nghiệp điển hình đã được hỗ trợ, NSCL tăng lên rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp báo cáo, sau khi được hỗ trợ tư vấn và áp dụng các hệ thống, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, năng suất của doanh nghiệp đã tăng lên 30 - 40% so với trước khi áp dụng.
Theo đánh giá của Ban điều hành, hiệu quả lớn nhất chương trình mang lại cho cộng đồng xã hội và doanh nghiệp thể hiện trên nhiều phương diện. Cụ thể, phong trào NSCL đã được xây dựng tại tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước với 7/8 bộ, ngành, 57/63 địa phương có dự án NSCL được phê duyệt, huy động nguồn lực tập trung cho mục tiêu nâng cao NSCL của sản phẩm, hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh, thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm, hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong, ngoài nước. Đồng thời, góp phần nâng tỷ trọng đóng góp của TFP trong tốc độ tăng GDP, giai đoạn 2016 - 2019 khoảng 40,4%; dự kiến 2016 - 2020 đạt 40,5%; vượt chỉ tiêu đề ra của chương trình là 35% vào năm 2020; góp phần cải thiện xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam.
Từ Chương trình đã góp phần hình thành Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia TCVN) với khoảng gần 13.000 TCVN đạt tỉ lệ gần 60% hài hoà tiêu chuẩn quốc tế bao trùm hầu hết các lĩnh vực, là cơ sở để triển khai các hoạt động quản lý chất lượng phục vụ sản xuất kinh doanh và thương mại.
Ngoài việc tập trung xây dựng TCVN phục vụ đối tượng sản phẩm hàng hóa trọng điểm, Bộ KH&CN đã chủ động, phối hợp với các Bộ, ngành triển khai xây dựng TCVN cho các nhóm đối tượng chiến lược như: Đô thị thông minh, sản xuất thông minh, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, mã số mã vạch, truy xuất nguồn gốc, năng lượng tái tạo, an ninh thông tin, biến đổi khí hậu, quản lý nguồn nước, xử lý chất thải, an toàn thực phẩm, công nghiệp phụ trợ, cơ khí chế tạo…
Hệ thống quy chuẩn quốc gia (QCVN) với khoảng 800 QCVN do 14 Bộ quản lý chuyên ngành ban hành trở thành công cụ và phương tiện quan trọng để duy trì các chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, hỗ trợ quản lý nhà nước, đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khoẻ cho con người; bảo vệ động vật, thực vật và môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và xã hội.
Thông qua Chương trình, đội ngũ chuyên gia, cán bộ tư vấn về NSCL, nguồn nhân lực bảo đảm cho hoạt động nâng cao NSCL tại các doanh nghiệp, ngành kinh tế và nền kinh tế đã được xây dựng, đào tạo một cách cơ bản. Xây dựng được khoảng 30 chương trình với hơn 40 bộ tài liệu đào tạo các kiến thức cơ bản về NSCL; kiến thức chuyên sâu về các hệ thống, công cụ cải tiến; tổ chức hơn 200 khóa đào tạo tập trung, đào tạo qua mạng cho khoảng trên 15.000 học viên, hơn 2000 lượt chuyên gia trong lĩnh vực NSCL.
Biên soạn, biên tập phát hành 40 đầu sách với hơn 50.000 bản và hơn 120 loại tài liệu phổ biến, hướng dẫn, đào tạo về NSCL cho các đối tượng khác nhau. Việc triển khai ứng dụng các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng tiên tiến, áp dụng tiêu chí quản lý của mô hình Giải thưởng Chất lượng Quốc gia đã giúp hàng chục nghìn doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, giảm chi phí sai lỗi, nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh.
Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao NSCL sản phẩm, hàng hóa và thúc đẩy áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001, ISO 14001, đã góp phần cải thiện chỉ số thành phần thuộc nhóm Chỉ số GII của Việt Nam.
Theo báo cáo Chỉ số GII của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2019, Việt Nam đạt 38,8 điểm trên thang điểm 100, đứng thứ 42 trên 129 nước; thứ 3 trong khối ASEAN, chỉ sau Singapore và Malaysia; tăng 3 bậc so với năm 2018. Thứ hạng này đã cải thiện 17 bậc so với xếp hạng năm 2016, đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp.