Phòng bệnh viêm vú và một số bệnh sinh sản không truyền nhiễm cho bò sữa ở thành phố Cần Thơ
Cơ quan chủ trì: Nông trường Sông Hậu. Chủ nhiệm: Ks. Nguyễn Hữu Trí. Thời gian thưc hiện: 2006-2010.
Quy mô, khối lượng sản phẩm tạo ra, chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật chủ yếu:
- Kết quả điều tra tình hình chăn nuôi bò sữa cho thấy các hộ đã chú ý đến phẩm chất giống
bò sữa, chuồng trại đạt yêu cầu, chú ý đến vệ sinh chuồng trại. Về thức ăn có
68% số hộ nuôi có trồng cỏ, 53% hộ biết bổ sung thêm thức ăn hỗn hợp như hèm, cám, bắp. đa số hộ sử dụng thức ăn của
công ty Proconco.
- Kết quả nghiên
cứu phòng trị bệnh viêm vú:
+ Tỷ lệ số bò viêm
vú theo kết quả ở các cơ sở điều trị là 32,5%, trong đó bò viêm 1 vú là 12,7%;
bò viêm 2 vú là 61,8%; bò viêm 3 vú là 21,8%, bò viêm 4 vú là 3,6%.
+ Về các loại vi
khuẩn gây viêm vú tại các cơ sở thì vi khuẩn phổ biến nhất là Staphylococcus aureus và Staphylococcus spp. Xuất hiện chiếm tỷ
lệ 88% và 46% số bò viêm vú. Streptococcus hiện diện ở 10% bò các hộ dân và 36%
bò NTSH. E.Coli chỉ xuất hiện ở bò hộ dân là 5%.
+ Về kháng sinh đồ
của các loại vi khuẩn gây viêm vú cho thấy vi khuẩn có độ nhạy cảm với kháng
sinh theo thứ tự giảm dần trên: 80% mẫu Staphylococcus aureus mẫn cảm với
Gentamicine, Neomycine, tetracyline, ciproloxacine, ofloxacine và Batrim. 80%
mẫu Staphylococcus spp mẫn cảm với
Gentamicine, Neomycine, ciproloxacine, ofloxacine…
+ Về phân tích các
yếu tố dẫn đến viêm vú tại các cơ sở phổ biến là: Streptococcus agalatiae, Staphylococcus
aureus, Streptococcus uberis, và
Streptococcus dysgalatiae, các vi khuẩn coliform.
+ Về kết quả sau
khi điều trị: tất cả các bò đều không thấy có kết quả là CMT3+, chỉ
còn 3 bò có kết quả CMT2+ là 91,7%. Thuốc điều trị lâm sàng tốt hiện
nay dùng cho cơ sở chăn nuôi là Neomycine, tetracycline (phòng bệnh toàn thân),
Mastijet. Ngoài ra còn có chương trình kiểm soát viêm vú đặc hiệu và kiểm soát
đặc biệt.
- Kết quả nghiên
cứu phòng trị bệnh sinh sản không truyền nhiễm:
+ Kết quả điều tra sinh sản cho thấy
các vấn đề về bệnh sinh sản như đẻ khó, sót nhau, viêm tử cung, chậm lên giống
ở bò HF thuần nhập từ Úc cao hơn so với bò lai. Bò hậu bị lớn lên từ giống các
bò này cũng có tỷ lệ chậm lên giống cao (57,1% so với bình quân của bò lai
9,5%).
+
Tỷ lệ các vấn đề sinh sản được xếp như sau: chậm lên giống chiếm tỷ lệ cao
nhất, sót nhau ở bò sữa 21,3%, viêm cổ tử cung từ 19,7%, đẻ khó 10.9%, phối
nhiều lần cho 1 lần đậu thai 2,16%.
+ Việc xử lý khắc phục các vấn đề sinh sản bằng hai loại hormone
GnRH và prostaglandine đã có kết quả tốt. 98,9% bò được xử lý đã lên giống và
100% số bò lên giống được gieo tinh. Số bò đậu thai ước tính là 86,7%. Việc
dùng Fertagyl (GnRH) để kích thích hoàng thể hoá buồng trứng đã có hiệu quả khá
cao giúp 71,2% bò được xử lý lên giống, và 60,3% bò đậu thai khi phối sau đó,
với số lần phối/đậu thai khá thấp (1,75 ở hộ dân và 1,83 ở Trại Bò NTSH). Việc
dùng Fertagyl để kích thích rụng trứng cũng đạt hiệu quả cao, giúp 87,5% bò
phối nhiều lần không đậu chỉ phối thêm 1 lần thì đậu thai.
+ Các bò được áp dụng biện pháp tổng hợp phòng tránh BSS đã
hạn chế tối đa các trường hợp sót nhau, viêm tử cung, chậm lên giống (chỉ 4%
chưa lên giống trong vòng 60 ngày sau khi đẻ). Bò đã phối giống chiếm 93% số bò
xử lý và bò đến ngày khám thai đã đậu thai 100%, và số ngày tử đẻ đến đậu thai
là 78,1 ngày đạt được mục tiêu phấn đấu theo khuyến cáo cho bò sữa nuôi ở nước
ngoài.
Hiệu quả kinh tế-xã hội:
Kết quả đề tài cho thấy thuốc điều trị lâm sang bệnh viêm vú
bò sữa tốt hiện nay dùng cho cơ sở chăn nuôi là Neomycine, tetracycline (phòng
bệnh toàn thân), Mastijet. Ngoài ra còn có chương trình kiểm soát viêm vú đặc
hiệu và kiểm soát đặc biệt.
Kết quả nghiên cứu phòng trị bệnh sinh sản đã hạn chế tối đa
các trường hợp sót nhau, viêm tử cung, chậm lên giống (chỉ 4% chưa lên giống
trong vòng 60 ngày sau khi đẻ). Bò đã phối giống chiếm 93% số bò xử lý và bò
đến ngày khám thai đã đậu thai 100%, và số ngày tử đẻ đến đậu thai là 78,1 ngày
đạt được mục tiêu phấn đấu theo khuyến cáo cho bò sữa nuôi ở nước ngoài.
Sở Khoa học và Công nghệ TP. Cần Thơ