3 xu hướng có thể tái định hình việc làm sau đại dịch Covid-19
COVID - 19 đã thúc đẩy 3 nhóm xu hướng tiêu dùng và kinh doanh có các tác động lâu dài và tiềm ẩn đối với lực lượng lao động có thể tồn tại sau khi đại dịch rút đi, làm gián đoạn cách thức và vị trí công việc được thực hiện. Đó là sự dịch chuyển sang làm việc từ xa và tương tác ảo; sự gia tăng sử dụng thương mại điện tử và các nền tảng kỹ thuật số; và gia tăng việc triển khai tự động hóa và AI.
1. Làm việc từ xa và các cuộc họp trực tuyến có khả năng sẽ tiếp tục được áp dụng (mặc dù với tần suất thấp hơn so với thời kỳ đỉnh điểm của đại dịch) với các tác động trực tiếp đến bất động sản, du lịch và các trung tâm đô thị
Có lẽ tác động rõ ràng nhất của Covid - 19 đối với lực lượng lao động là sự gia tăng đáng kể nhân viên làm việc từ xa. Mặc dù làm việc từ xa đã có thể thực hiện được trong nhiều năm, nhưng công việc từ xa trong thời kỳ đại dịch đã được hỗ trợ bởi việc triển khai nhanh chóng các giải pháp kỹ thuật số mới, chẳng hạn như hội nghị truyền hình, các công cụ chia sẻ tài liệu và mở rộng năng lực điện toán đám mây. Các quốc gia nhanh chóng chỉ định những công nhân cần thiết phải có mặt tại nơi làm việc và yêu cầu những người khác ở nhà. Thực tế đó đã chứng minh một số lợi ích của làm việc từ xa, bao gồm sự linh hoạt hơn cho người lao động và hiệu quả hơn cho doanh nghiệp. Mức độ gắn bó là không chắc chắn, nhưng người sử dụng lao động và nhân viên có thể làm việc tại nhà đồng ý rằng công việc từ xa - ít nhất là trong một phần của tuần làm việc - được chấp nhận rộng rãi.
Để xác định mức độ công việc từ xa có thể tồn tại sau đại dịch như thế nào, các nhà nghiên cứu đã phân tích tiềm năng của nó trong hơn 2.000 nhiệm vụ trong khoảng 800 ngành nghề trên 8 quốc gia trọng điểm (Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ). Đại dịch đã chứng minh rằng nhiều công việc có thể được thực hiện từ xa hơn người ta tưởng, bao gồm bán hàng qua điện thoại, phân xử và xét xử pháp lý, thăm khám bác sĩ, học các chương trình của nhà trường, tham quan bất động sản và thậm chí là chuyên gia sửa chữa máy móc phức tạp nhất thế giới được thực hiện với sự trợ giúp của tai nghe thực tế ảo.
Chúng tôi cũng nhận thấy rằng một số công việc về mặt kỹ thuật có thể được thực hiện từ xa tốt nhất nên được thực hiện trực tiếp. Ví dụ, việc đi học được đưa lên mạng trong thời kỳ khủng hoảng, nhưng cha mẹ và giáo viên đều ghi nhận sự mất hiệu quả, đặc biệt là trong việc hướng dẫn trẻ nhỏ và học sinh có nhu cầu đặc biệt. Đàm phán, các quyết định kinh doanh quan trọng, các phiên động não, cung cấp phản hồi nhạy cảm và giới thiệu nhân viên mới là những ví dụ về các hoạt động có thể mất một số hiệu quả khi được thực hiện từ xa.
Chỉ xem xét công việc từ xa có thể được thực hiện mà không làm giảm năng suất, các nhà nghiên cứu thấy rằng khoảng 20 - 25% lực lượng lao động ở các nền kinh tế tiên tiến có thể làm việc tại nhà từ 3 - 5 ngày một tuần. Các nền kinh tế tiên tiến, với tỷ lệ việc làm lớn hơn ở lĩnh vực văn phòng sử dụng máy tính, có tiềm năng làm việc từ xa cao hơn so với các nền kinh tế mới nổi.
Mặc dù những người có thể làm việc tại nhà từ 3-5 ngày một tuần là thiểu số, nhưng họ đại diện cho việc làm từ xa gấp 4-5 lần so với thời điểm trước đại dịch và hiệu ứng gợn sóng của việc nhiều nhân viên làm việc tại nhà hơn có thể có những tác động lớn đối với thành thị và các trung tâm. Nhu cầu về nhà hàng và bán lẻ ở các khu vực trung tâm thành phố và các phương tiện giao thông công cộng có thể giảm. Một số công ty đang có kế hoạch chuyển đổi thậm chí nhanh hơn sang không gian làm việc linh hoạt, giảm không gian tổng thể cần thiết nếu ít nhân công hơn vào bất kỳ ngày nào tại văn phòng. Một cuộc khảo sát với 278 giám đốc điều hành của McKinsey vào tháng 8 năm 2020 cho thấy diện tích văn phòng theo kế hoạch giảm trung bình là 30%. Làm việc từ xa gia tăng cũng có thể dẫn đến sự thay đổi lớn hơn về địa lý làm việc, khi các cá nhân và công ty chuyển ra khỏi các thành phố lớn nhất đến vùng ngoại ô và các thành phố nhỏ hơn.
Ngoài ra, việc sử dụng rộng rãi hội nghị truyền hình trong thời kỳ đại dịch đã mở ra một sự chấp nhận mới về các cuộc họp trực tuyến và các khía cạnh khác của công việc, mà nhiều công ty mong đợi sẽ thay thế một số chuyến đi công tác sau đại dịch. Trong khi du lịch giải trí và du lịch có thể sẽ phục hồi khi đại dịch kết thúc, như đã xảy ra ở Trung Quốc, việc đi công tác có thể được thực hiện theo cách khác. McKinsey ước tính rằng khoảng 20% các chuyến đi công tác có thể không trở lại sau đại dịch. Điều này sẽ có tác động đáng kể đối với việc làm trong ngành hàng không vũ trụ thương mại và sân bay, khách sạn và dịch vụ ăn uống.
2. Thương mại điện tử và các giao dịch trực tuyến khác đang bùng nổ, tạo ra nhu cầu gia tăng đối với việc làm ngắn hạn theo thời vụ (gig work)
Nhiều người tiêu dùng đã phát hiện ra sự tiện lợi của thương mại điện tử, giao hàng được đặt qua ứng dụng và các hoạt động trực tuyến khác trong thời kỳ đại dịch. Vào năm 2020, thị phần của thương mại điện tử trong doanh số bán lẻ đã tăng với tốc độ gấp 2-5 lần so với trước Covid -19, làm tăng tỷ trọng của thương mại điện tử trong tổng doanh thu bán lẻ. Hơn nữa, 3/4 người sử dụng các kênh kỹ thuật số lần đầu tiên trong thời kỳ đại dịch nói rằng họ sẽ tiếp tục sử dụng chúng khi mọi thứ trở lại “bình thường”. Dữ liệu từ các quốc gia nơi nền kinh tế đang phục hồi, chẳng hạn như Trung Quốc, cho thấy việc sử dụng các kênh kỹ thuật số vẫn tiếp tục cao.
Các loại giao dịch trực tuyến khác như khám bệnh từ xa, ngân hàng trực tuyến và giải trí trực tuyến cũng đã thành công. Tư vấn bác sĩ trực tuyến thông qua Practo, một công ty viễn thông ở Ấn Độ, đã tăng hơn 10 lần từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2020. Tại Trung Quốc, Ping An Good Doctor đã tăng hơn gấp đôi doanh thu trong lĩnh vực kinh doanh chăm sóc sức khỏe trực tuyến của mình trong nửa đầu năm 2020. Việc sử dụng y tế từ xa có thể giảm phần nào do các nền kinh tế mở cửa trở lại nhưng có khả năng tiếp tục cao hơn mức đã thấy trước đại dịch.
Sự chuyển dịch sang giao dịch kỹ thuật số này đã thúc đẩy gia tăng các công việc giao hàng, vận chuyển và kho hàng, đồng thời tạo ra sự sụt giảm giữa các công việc bán lẻ tại cửa hàng như thu ngân. Khi doanh số bán lẻ trực tuyến tăng vọt, các nhà bán lẻ đang đóng cửa các địa điểm truyền thống. Macy’s và Gap nằm trong số nhiều nhà bán lẻ đã công bố kế hoạch đóng cửa hàng trăm cửa hàng trên khắp Hoa Kỳ. Trong khi đó, Amazon đã thuê hơn
400.000 công nhân trên toàn thế giới trong thời kỳ đại dịch. Tại Trung Quốc, lĩnh vực thương mại điện tử, giao hàng và mạng xã hội đã tăng hơn 5,1 triệu việc làm trong nửa đầu năm 2020.
Nhiều công việc được tạo ra trong lĩnh vực vận chuyển đường dài và giao hàng chặng cuối thông qua nền kinh tế Gig (nền kinh tế mà trong đó mọi người thường làm việc bán thời gian hoặc tạm thời, còn các công ty có xu hướng thuê những người làm việc độc lập và tự do thay vì nhân viên toàn thời gian) và các nhà thầu độc lập. Do đó, sự phát triển của thương mại điện tử và các giao dịch kỹ thuật số khác có thể dẫn đến sự chuyển dịch sang các công việc hợp đồng trong lực lượng lao động độc lập.
Công việc độc lập cung cấp sự linh hoạt cho nhiều người lao động và trong thời kỳ đại dịch, nó là một mạng lưới an toàn cho những cá nhân bị cuốn vào các công việc khác. Nhưng làm việc độc lập - đặc biệt là các công việc trên nền tảng Gig - không đem lại con đường sự nghiệp rõ ràng cho người lao động theo tăng kỹ năng và thu nhập của họ. Những người lao động độc lập ở một số quốc gia cũng không được nghỉ ốm được trả lương hoặc các quyền lợi khác. Các nhà hoạch định chính sách lần đầu tiên mở rộng một số quyền lợi cho người lao động tự do và lao động hợp đồng trong thời kỳ đại dịch, nhưng sẽ cần nhiều việc làm hơn để làm cho các chương trình này tồn tại vĩnh viễn.
3. COVID - 19 có thể thúc đẩy việc áp dụng tự động hóa và AI nhanh hơn, đặc biệt là trong các lĩnh vực việc làm có cự ly tiếp xúc gần
Kinh nghiệm cho thấy trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ việc làm chủ yếu là các nhiệm vụ thường ngày giảm xuống do các doanh nghiệp tìm cách kiểm soát chi phí của họ trong khi giải quyết áp lực về lợi nhuận và giảm thiểu sự không chắc chắn bằng cách nâng cao hiệu quả. Hai cách mà họ đã làm là áp dụng công nghệ tự động hóa và thiết kế lại quy trình làm việc.
Tăng đầu tư cho tự động hóa và AI
Ví dụ, khi chúng ta nhìn vào hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, chúng ta nhận thấy sự sụt giảm lâu dài trong việc làm thường xuyên trên khắp Hoa Kỳ và một số quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu.
Mặc dù nhiều công ty đã kìm hãm chi tiêu gia tăng trong đại dịch, nhưng bằng chứng đang xuất hiện cho thấy đầu tư vào tự động hóa có thể tăng lên trong quá trình phục hồi. Trong cuộc khảo sát toàn cầu 800 giám đốc điều hành cấp cao vào tháng 7 năm 2020 của McKinsey, 2/3 cho biết họ đang đẩy mạnh đầu tư vào tự động hóa và AI một phần hoặc đáng kể. Phản ánh điều này, giá cổ phiếu của các công ty chế tạo robot và AI công nghiệp toàn cầu tăng nhanh hơn nhiều so với mức chung thị trường vào năm 2020. Và trong khi số liệu sản xuất robot ở Trung Quốc giảm vào đầu năm 2020, chúng đã vượt quá mức trước đại dịch vào tháng 6 năm 2020.
Nghiên cứu của McKinsey cho thấy việc áp dụng nhanh hơn các công nghệ tự động hóa, AI và kỹ thuật số có khả năng tập trung vào các trường hợp sử dụng cụ thể, phản ánh các ưu tiên của công ty liên quan đến COVID - 19.
Một ví dụ đã từng được thấy trong thời kỳ đại dịch là việc triển khai các công nghệ để đáp ứng sự gia tăng nhu cầu. Điều này bao gồm tự động hóa trong các nhà kho và hậu cần cho phép các công ty đối phó với khối lượng thương mại điện tử cao hơn hoặc trong các nhà máy sản xuất để tăng cường sản xuất các mặt hàng có nhu cầu tăng đột biến, chẳng hạn như thực phẩm và đồ uống, điện tử tiêu dùng, khẩu trang và các phương tiện bảo vệ cá nhân khác.
Sử dụng công nghệ để giảm mật độ nơi làm việc
Ví dụ, các nhà máy đóng gói thịt và gia cầm, thuộc lĩnh vực sản xuất và kho bãi trong nhà, đã đẩy nhanh việc triển khai robot. Các robot dịch vụ cũng đã được sử dụng để cung cấp nguồn cung cấp trong bệnh viện và các đơn đặt hàng phục vụ phòng trong khách sạn. Các công ty đã triển khai thêm chế độ tự thanh toán tại các cửa hàng tạp hóa và nhà thuốc để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về dịch vụ không tiếp xúc. Nhu cầu về các ứng dụng đặt hàng trong nhà hàng và khách sạn cũng tăng tương tự. Cuối cùng, các công ty đã thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng tự động hóa quy trình bằng robot để xử lý thủ tục giấy tờ và giảm mật độ trong không gian văn phòng. Ví dụ, một số ngân hàng đã áp dụng công nghệ này để xử lý sự gia tăng trong các đơn xin vay từ các chương trình kích cầu của chính phủ.
Đặc điểm chung của các trường hợp sử dụng công nghệ tự động hóa này là mối tương quan của chúng với điểm số cao về sự tương tác của con người, bao gồm cự lý tiếp xúc gần với người khác, tần suất tương tác và mức độ tiếp xúc với những người lạ. Nghiên cứu của McKinsey cho thấy các lĩnh vực việc làm có mức độ tương tác cao của con người cũng có khả năng chứng kiến một số khả năng tăng tốc lớn nhất trong việc áp dụng tự động hóa và AI.
Cục Thông tin KH&CN Quốc gia – Bộ KH &CN Bản tin “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”, Số 11.2021 (ntbtra)