Đưa quyền sở hữu trí tuệ vào trường học
Hai trường nghệ thuật vừa đưa quyền sở hữu trí tuệ vào giảng dạy nhằm giúp sinh viên hiểu quyền và trách nhiệm, thực hiện ngay từ ghế nhà trường.
Ở nhiều nước cũng quy định cụ thể việc sao chép
tài liệu học tập đến trích dẫn trong làm bài. Liệu có nên mở rộng
thực hiện quy định này trong sinh viên?
Vừa qua, hơn 70 sinh viên của các lớp: Sáng tác âm nhạc, chỉ huy (ĐH Văn
hóa nghệ thuật quân đội), biên đạo múa, huấn luyện múa (Trường Trung cấp Múa
TP.HCM) đã có buổi học đầu tiên môn Quyền
tác giả và quyền liên quan trong Luật Sở hữu trí tuệ. Có thể nói, đây là
lần đầu tiên quyền sở hữu trí tuệ được đưa vào học ở một trường không phải
chuyên ngành luật.
Tạo
nhận thức và thói quen cho sinh viên
Trao
đổi với Pháp Luật TP.HCM,
Đại tá-nhạc sĩ Nguyễn Đức Trịnh, Hiệu trưởng trường, cho biết: “Chúng tôi nhận
thấy môn học này cần cho sinh viên, đặc biệt là những sinh viên múa, sáng tác,
sân khấu điện ảnh… Vào đầu năm học tới, trường sẽ áp dụng dạy môn này trong
toàn bộ chương trình đào tạo của trường”. Ông Trịnh cũng chia sẻ thêm, dạy môn
học này để sinh viên hiểu, nắm rõ được luật và quan trọng hơn cả là tạo cho
sinh viên thói quen trong việc sử dụng tác phẩm bản quyền. “Từ thói quen đó
sinh viên có ý thức hơn với việc áp dụng bản quyền trong cuộc sống hằng ngày” -
ông Trịnh nói.
Và,
chính các nghệ sĩ hiện tại cũng chưa biết thực sự về quyền của mình nên tình
trạng kiện tụng về tác quyền ca khúc, bản quyền âm nhạc, tác phẩm… vẫn thường
diễn ra trên mặt báo.
Trường
bỏ lỏng, vi phạm tràn lan
Bộ
Giáo dục và Đào tạo từng ban hành Quy
định về quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ trong cơ sở giáo dục đại học (Số 78/2008/QĐ-BGDĐT) vào năm 2008.
Thế
nhưng lâu nay, thực hiện quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường đại học, cao
đẳng hầu như bỏ ngỏ. Sinh viên vi phạm bản quyền vẫn không biết đó là vi phạm
hoặc xem chuyện vi phạm là bình thường, hiển nhiên đến độ thành thói quen. Bởi
giá sách gốc đắt hơn sách sao chép (photocopy) nên sinh viên mượn sách của thư
viện hoặc giảng viên để sao chép nguyên quyển với giá thành chỉ bằng một nửa
giá gốc. Sinh viên xem việc mua và sử dụng những sản phẩm sao chép này là
chuyện bình thường không có gì sai trái. Hay việc sinh viên chép tài liệu từ
trên mạng khi làm tiểu luận, khóa luận nhưng không trích dẫn nguồn, tác giả,
xuất xứ… Vì thế từ khi còn là sinh viên đã có thói quen sao chép, khi trở thành
giảng viên những thói quen sao chép vẫn thường xảy ra. Không ít bài giảng của
giảng viên lấy ví dụ từ sách, báo, các trang mạng nhưng không ghi rõ nguồn. Sao
chép không trích dẫn tạo thành thói quen từ bài giảng, từ tiểu luận đến khóa
luận rồi luận văn, luận án cũng không ghi nguồn. Chính từ đây mà những đề tài
nghiên cứu khoa học cứ giông giống nhau liên tục xảy ra. Để chấn chỉnh thực
trạng này nên chăng cần đưa việc giảng dạy và thực hiện quyền sở hữu
trí tuệ vào chính nhà trường?
Không
nên là môn học chính
Từ năm 2009, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM đã ban hành Quy định về sở hữu trí tuệ trong nội bộ của trường. Theo đó, đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
của trường gồm: Quyền tác giả đối với tác phẩm giáo trình, bài giảng, báo cáo
khoa học, các giống cây, các quy trình kỹ thuật. Quyền sở hữu công nghiệp bao
gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
các máy móc thiết bị nông nghiệp, bí mật kinh doanh, logo, nhãn hiệu hàng
hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại. Và quyền đối với giống cây trồng và
vật liệu nhân giống.
|
Từ
việc hai nhà trường đã nêu đưa quyền sở hữu trí tuệ vào chương trình
học, có ý kiến đề nghị cần nhân̉ rộng mô hình này trong các trường ĐH
và cao đẳng. Có thể môn Pháp luật đại cương vài tiết dành cho sở hữu trí
tuệ. Hoặc có thêm những buổi nói chuyện cho sinh viên, đặc biệt áp dụng các
trích dẫn trong làm luận văn, luận án, sử dụng sách sao chép…
TS
Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, có ý
kiến phản biện: “Cái tệ nhất hiện nay của xã hội là thấy cái gì cần thiết
đều muốn đưa vào chương trình học làm chương trình học của sinh viên rất nặng
nề. Không phải cái gì cũng đưa vào trường học. Sở hữu trí tuệ là cần thiết
nhưng nó phù hợp giảng dạy ở những ngành quản lý trực tiếp về khoa học chứ không
phải ngành nào cũng giảng dạy. Dù đưa vào môn tự chọn hay bắt buộc cũng vậy
thôi! Sinh viên muốn biết phải đọc, tìm hiểu từ báo chí, mạng Internet… chứ
trường không thể dạy mọi thứ trên đời”.
Luật
sư Lê Quang Vy, Công ty Luật VLT Lawers, giảng viên phụ trách bộ môn Quyền tác
giả và quyền liên quan trong Luật Sở hữu trí tuệ cho rằng: “Với sinh viên dù
bất cứ ngành nào cũng đều cần biết quy định về trích dẫn để thực hành trong
bài tập, khóa luận. Với môn học này, quan trọng là làm sao sinh viên phải hiểu và
ý thức được việc tôn trọng bản quyền là việc hiển nhiên và thoải mái với việc
đó”.
“Luật”
dẫn nguồn ở Trường Kaplan Higher Education Academy
Tại Trường Kaplan Higher Education Academy (Singapore), ngày
nhập học đầu tiên, sinh viên sẽ được học 6 tiếng đồng hồ về sở hữu
trí tuệ và hướng dẫn các cách dẫn nguồn để sử dụng khi làm bài kiểm
tra, tiểu luận trong toàn bộ chương trình học. Sau một tháng trường sẽ
cho kiểm tra lại bằng hình thức trắc nghiệm. Trên thế giới hiện có
nhiều hệ thống dẫn nguồn khác nhau. Hệ thống của APA (American Psychological
Association) và Harvard. Khi làm bài tiểu luận, người viết sẽ ghi chú mình
làm theo hệ thống nào để giám khảo có thể kiểm tra lại. Những trường học, tổ
chức áp dụng hệ thống nào thì phải tuân theo quy tắc của hệ thống đó. Khi làm
tiểu luận, có hai việc phải làm để cho việc dẫn nguồn được hợp lệ: trích dẫn
(citation) và nguồn tham khảo (reference list).
Trích dẫn: Có ba cách đưa ý của một
người khác vào bài của mình: trích dẫn nguyên văn (quote), rút gọn ý
(summarize), diễn giải theo ý mình (paraphrase). Phải chia đều ra ba dạng khi
trích dẫn. Tức là nếu trong một bài có 12 trích dẫn thì sử dụng mỗi kiểu
bốn trích dẫn. Phía sau các đoạn trích dẫn phải ghi trong ngoặc ngắn gọn
về tên của tác giả và thời gian lúc ý đó được viết ra. Tùy theo loại nguồn
(sách, báo, tạp chí…) mà có nhiều cách để ghi trích dẫn. Ví dụ: Khi trích dẫn
một đoạn trong cuốn sách cần phải ghi: tên tác giả, trang chứa đoạn trích dẫn
và năm xuất bản. Trường Kaplan khống chế tỉ lệ trích dẫn là 30% dung
lượng văn bản, nếu trích dẫn quá 30% sẽ bị xem là đạo văn.
Nguồn tham khảo là nguồn chứa trích dẫn trong
bài luận mà người viết trích dẫn nằm ở cuối bài luận, nhằm để người đọc hoặc
giám khảo có thể biết được nguồn gốc trích dẫn nằm ở đâu. Người viết có thể
trích dẫn từ rất nhiều nguồn như sách, báo, ebook, blog, các nguồn từ
Internet. Mỗi một loại nguồn như thế đều có một quy tắc riêng.
Ví dụ: Quy tắc ghi nguồn của sách giáo khoa theo kiểu APA gồm:
tên các tác giả, thời gian xuất bản, tựa cuốn sách, tái bản lần thứ mấy, địa
điểm xuất bản (tên thành phố hay đất nước) và tên nhà xuất bản.
Một sinh viên Kaplan Higher Education Academy
|