Ảnh hưởng của độ mặn lên khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu, ion và tăng trưởng của cá trê vàng lai giai đoạn giống
Cá trên vàng lai là con lai giữa cá trê vàng (Clarias macroephalus Gunther) và cá trê phi (Clarias gariepinus). Cá có đặc điểm lớn nhanh, khả năng chịu đựng môi trường rất tốt, cá có thể chịu đựng được độ mặn dưới 16ppt, không đòi hỏi kỹ thuật nuôi cao nhưng hiệu quả rất cao phù hợp với tất cả nông hộ. Thời gian gần đây, cá trê vàng lai được nuôi ở nhiều nơi, mang lại thu nhập khá góp phần cải thiện đời sống của người dân vùng nông thôn.
Tuy nhiên, những
thông tin về biến đổi khí hậu, nước mặn có thể xâm nhập vào rạch nội đồng, sông
rạch ở đồng bằng sông Cửu Long làm cho các nhà khoa học và người dân quan tâm lo lắng. Việc
nghiên cứu xem cá trê vàng lai có nuôi được trong nước mặn hay không đang là một
vấn đề đang được đặt ra.
Với mục tiêu làm
cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp theo về cá trê vàng cũng như góp phần
hoàn thiện quy trình nuôi đối tượng này, nhóm nghiên cứu Phạm Thành Nam và Đỗ Thi
Thanh Hương, Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ đã thực hiện nghiên cứu nhằm
xác định ảnh hưởng của độ mặn lên khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu, ion và tăng
trưởng của cá trê vàng lai.
Nhóm nghiên cứu
đã lựa chọn cá trê vàng lai cở từ 8-12g/con được xác định khả năng điều hóa áp
suất thẩm thấu và ion của cá ở độ mặn 0,3, 6, 9, 12, 15, 18ppt. Bố trí cá ở các
mức độ mặn 0,3,6,9,12,15 ppt để xác định sự tăng trưởng , tỉ lệ sống và hệ số
chuyển hóa thức ăn của cá sau 90 ngày nuôi.
Kết quả nghiên cứu
cho thấy, áp suất thẩm thấu và nồng độ các ion Na+, K+, Cl- trong huyết tương
cá ít thay đổi ở các nghiệm thức dưới 9ppt và tang nhanh ở các nghiệm thức 12,
15, 18ppt. Điểm cân bằng giữa áp suất thẩm thấu trong cơ thể và môi trường là
9ppt (292mOsm/kg). cá trê vàng lai nuôi ở nghiệm thức 3ppt là tốt nhất. Tăng
trưởng về khối lượng và chiều dài cao hơn và
hệ số chuyển hóa thức ăn thấp hơn so với các nghiệm thức khác mặt dù khi
so sánh thống kê thì cho kết quả khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa
các nghiệm thức từ 0-9ppt. Tỉ lệ sống của cá đạt cao nhất ở 3ppt và thấp nhất ở
nghiệm thức 15ppt.