Bài toán xây dựng thương hiệu chè Việt Nam
Đi tìm thương hiệu cho cây chè Việt Nam đang là bài toán hóc búa cho các doanh nghiệp trồng và sản xuất chè trong nước. Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, vướng mắc ở đầu vào. Sản xuất chè đại trà, vướng mắc ở đầu ra. Vòng luẩn quẩn ấy nhiều năm nay đã khiến cho thị trường chè xuất khẩu ngày một hạn hẹp, trong khi doanh nghiệp cứ loay hoay tìm hướng đi.
Muốn
lấy lại thị trường thế giới phải bắt đầu từ những đơn hàng chè thật chất lượng
- Ảnh: Hoàng Long
Lép
vế thị trường xuất khẩu
Theo báo
cáo của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), năm 2011, diện
tích trồng chè tại Việt Nam còn khoảng 133.000 ha, với hơn 2 triệu lao động
tham gia trồng và sản xuất chè. Cũng trong năm này, giá chè Việt Nam xuất khẩu
chạm ngưỡng 1.214 USD/tấn. Tuy nhiên, giá xuất khẩu chỉ bằng 1/9 giá chè được
nhập vào châu Âu từ các quốc gia khác, khoảng 10.218 USD/tấn. Ngay cả thị
trường Nga, một trong những thị trường truyền thống và tiềm năng nhất của Việt
Nam, giá chè cũng không được cải thiện, thậm chí 6 tháng đầu năm 2012, lượng
chè xuất khẩu sang Nga còn giảm 13,91% về lượng, 16,16% về giá trị, xuống còn
4.505 tấn, so với gần 5.210 tấn năm 2011.
Thị
trường Việt Nam rõ ràng đang bị lép vế trước các quốc gia mới nổi như Srilanka,
Ấn Độ, mặc dù giá chè luôn ở mức thấp nhất. Tại Hội thảo "Đánh giá thực
trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè” tổ chức mới đây, Hiệp hội Chè Việt
Nam đã chỉ ra nguyên nhân chính khiến chè Việt thất thế, đó là chất lượng chè
xuất khẩu hiện nay chỉ ở mức trung bình, trong khi thị trường tiêu dùng chè thế
giới đặc biệt khó tính. Trong hầu hết các đơn đặt hàng năm 2011 và 6 tháng đầu
năm 2012, sự chọn lựa đối với chè Việt Nam thường được xếp sau cùng, thị phần
chè vì thế từng bước bị thu hẹp. "Số đông khách hàng thế giới chấp nhận
mua chè ngon với giá cao, trong khi đa số chè Việt Nam không đảm bảo tiêu chuẩn
quốc tế. Bên cạnh đó, thương mại chè bị phụ thuộc và lũng đoạn bởi khách hàng
trung gian nước ngoài. Mặc dù Việt Nam đã mở rộng được thị trường xuất khẩu chè
tới 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng sản phẩm luôn bị ép giá do
không có thương hiệu”, ông Đoàn Anh Tuân, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam nhấn
mạnh.
Hiện nay, toàn quốc ước tính có khoảng gần 700 nhà máy chế biến chè, ngoài ra
là hàng nghìn cơ sở chế biến chè thủ công của hộ gia đình. Tuy nhiên, số lượng
"mọc” tràn lan không đem lại nhiều những sản phẩm chè chất lượng. Chủ yếu
hiện nay là chè đại trà, có chất lượng thấp, nguyên do bởi công suất thấp,
thiết bị sản xuất còn rất hạn chế. Ông Đoàn Anh Tuân tiếp: Có quá nhiều công ty
tham gia xuất khẩu chè. Song điều nguy hại là nhiều công ty xuất khẩu ấy lại
không chuyên về chè, họ chỉ kinh doanh thuần túy, sẵn sàng chào bán các loại
chè chất lượng thấp. Năm 2012, Việt nam đang đứng đầu về các sản phẩm chè bị Mỹ
trả lại vì chất lượng kém.
Xây dựng thương hiệu – lực bất tòng tâm
Yên Bái,
nổi tiếng với vùng chè Suối Giàng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất chè tại đây đang
cố gắng thay đổi công nghệ sản xuất, nhà xưởng, thiết bị, để tạo ra những sản
phẩm chè có chất lượng. Tuy nhiên, vướng mắc lớn nhất lại chính ở đầu ra sản
phẩm, hay nói cách khác thương hiệu sản phẩm đang bị thương lái lợi dụng. Cụ
thể, trên thị trường, nhiều sản phẩm chè "nhái” Suối Giàng đang được chào
bán, trong khi chính sản phẩm Suối Giàng "xịn” lại thiếu đơn đặt hàng,
hoặc bị đánh đồng với những sản phẩm thứ cấp. Bà Lâm Thị Thoa, Chủ nhiệm hợp
tác xã Suối Giàng cho biết, thương hiệu chè Suối Giàng đã được Bộ Khoa học và
Công nghệ cấp cho một đơn vị tư nhân sản xuất chè ở Hà Nội. Nhiều doanh nghiệp
chè tại Suối Giàng đã bị "vạ lây” khi chè sản xuất (giá cao) bị
"ngợp” chìm trong hàng trăm chủng loại chè cùng loại (giá rẻ, chất lượng
kém). Doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng, đồng nghĩa muốn tồn tại phải quay
về sản xuất chè có giá thành vừa phải. Như vậy, chắc chắn sẽ mất uy tín cũng
như chấp nhận mất thị phần ngay tại thị trường trong nước, chưa nói tới xuất
khẩu.
Tương tự
như vậy, trong nỗ lực cải tạo chất lượng chè, Hợp tác xã chè Tân Hương (Thái
Nguyên) đã áp dụng tiêu chuẩn UZT cho cây chè để đem lại những sản phẩm đạt
tiêu chuẩn hơn. Song, việc bỏ công, bỏ sức, tiêu tốn nhiều khoản kinh phí lớn
không giúp cho cây chè "sạch” sống ngay chính tại địa phương. Bà Đỗ Thị
Hiệp, Chủ nhiệm HTX Tân Hương cho biết, giá sản phẩm được tư thương thu mua chỉ
ngang bằng những sản phẩm chè không đạt tiêu chuẩn khác trong vùng. Tâm lý
người tiêu dùng hiện nay chỉ chọn tiêu chí về giá. Doanh nghiệp vì thế không
cân đối được thu chi. Doanh nghiệp thực sự khó khăn khi xây dựng thương hiệu,
thậm chí dẫn tới phá sản.
Loay hoay
xây dựng thương hiệu cây chè, bài toán khó không chỉ với cây chè Suối Giàng
(Yên Bái) hay cây chè Tân Hương (Thái Nguyên). Riêng đối với các nhà quản lý
trong nước, xây dựng hệ thống quản lý và phát triển thương hiệu chè, phải có
xuất phát điểm từ chính những cơ sở trồng chè theo tiêu chuẩn trong nước. Việc
"bỏ rơi” phần gốc, trong tương lai, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới phần ngọn
– lĩnh vực xuất khẩu. Nói như chuyên gia nông nghiệp Nguyễn Quốc Vọng, việc làm
cấp bách của ngành chè là phải thay đổi nhận thức và trách nhiệm của người nông
dân với người sản xuất, gắn kết trách nhiệm giữa nhà máy với nguồn nguyên liệu
để nâng cao chất lượng chè. Bên cạnh đó, việc bảo hộ thương hiệu phải được ràng
buộc về mặt pháp luật. Nếu không sẽ luôn dẫn tới tình trạng doanh nghiệp chân
chính luôn chịu chi phối bởi tư thương, chất lượng chè bị lạm dụng, thị trường
chè bị bóp méo. Muốn lấy lại thị trường thế giới phải bắt đầu từ những đơn hàng
chè thật chất lượng.