Xác định phương trình tính toán lượng các bon trên mặt đất cho Chò xót, Cóc đá, Giổi nhung, Sến đất, Chò đen, Vạng trứng thuộc rừng tự nhiên lá rộng thường xanh nhiệt đới tại tỉnh Gia Lai.
Nghiên cứu do nhóm tác giả Đỗ Văn Nhân (Trung tâm Sinh thái Rừng và Tư vấn Lâm nghiệp, Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam Trung bộ và Tây Nguyên), Nguyễn Phú Hùng và cộng sự (Viện Điều tra Quy hoạch Rừng) thực hiện.
Ảnh minh họa
Hệ sinh thái thực vật rừng
nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng bao gồm nhiều loài cây có các đặc trưng
sinh trưởng, cấu trúc khác nhau, phức tạp. Đối với rừng tự nhiên lá rộng thường
xanh nhiệt đới cần nghiên cứu các cá thể làm cơ sở cho việc nghiên cứu cả hệ
sinh thái. Nghiên cứu các bon rừng cần được tiến hành trên toàn thể các bộ phận
thân cây chứ không nghiên cứu mỗi thân cây rừng vì lượng các bon không chỉ có ở
thân cây, mà các bộ phận khác như cành, lá, rễ cũng chứa một lượng đáng kể. Để
xác định được lượng các bon toàn cây và các bộ phận cần phải xác định các chỉ
tiêu dễ đo đếm như đường kính ngang ngực (D1.3) và chiều cao thân
cây (Hvn).
Nhằm mục tiêu đóng góp cho
nghiên cứu trữ lượng các bon trong cá thể loài làm cơ sở xác định chính xác
lượng các bon tích trữ trong quần thể
rừng, đã tiến hành nghiên cứu xây dựng phương trình tương quan trữ lượng các
bon phân bố trong các bộ phận của cây (thân, cành nhánh và lá) trên mặt đất cho
6 loài cây (1) Chò xót: Schima superba Gardn. Et Champ; (2) Cóc
đá: Dacryodes dunggii Dai et. Jakovl; (3) Giổi nhung: Michelia
braianensis Gagn; (4) Sến đất, Sến đất Bon, Mai lai Bon: Sinosideroxylon
bonii Aubr.; (5) Chò đen, Chò chỉ: Parash hoặc Stellata Kurz.; (6)
Vạng trứng: Endospermum chinense Benth.; đây là các loài chủ yếu thuộc
rừng lá rộng thường xanh, một kiểu rừng có diện tích và trữ lượng lớn nhất ở
Việt Nam để phục vụ cho việc tính toán, thương mại các bon. Dung lượng mẫu để
xây dựng phương trình là 30 cây/loài, theo cấp kính 3 cm. Đã xác định được sinh
khối tươi, sinh khối khô và các phương trình tương quan giữa thể tích thân cây
(V-m3), trữ lượng các bon các bộ phận: toàn cây, thân, cành nhánh và
lá (kg) với các nhân tố dễ xác định là đường kính tại vị trí 1,3 m (D1.3,
cm) và chiều cao vút ngọn (Hvn-m) cho 6 loài và chung cho 6 loài rừng lá rộng
thường xanh trên cơ sở lựa chọn các dạng phương trình phù hợp nhất là dạng
phương trình Power (Y = b0 x X^b1) với hệ số tương quan lớn nhất, sai số nhỏ
nhất và tồn tại các tham số của phương trình (t =0,05). Cũng xây dựng được tỷ
lệ phần trăm lượng các bon trên mặt đất của các bộ phận thân cây. Đây là kết
quả đầu tiên xác định phương trình tương quan giữa lượng các bon toàn cây và
các bộ phận với các nhân tố dễ đo đếm, phục vụ cho việc xác định chính xác
lượng các bon của lâm phần.