Một số xuất xứ Tràm năm gân giàu 1,8-cineole trong tinh dầu và có triển vọng ở Việt Nam
Nghiên cứu do Lê Đình Khả, Nguyễn Thị Thanh Hường (Viện Cải thiện Giống và Phát triển Lâm sản) và K. Pinyopusarerk (Trung tâm Giống cây rừng Australia) thực hiện.
Ảnh minh họa
Tràm năm gân (M.
quinquenervia (Cav.) S.T. Blake) là một trong những loài tràm chủ
yếu được trồng để sản xuất tinh dầu giàu 1,8-cineole cùng các loài tràm cajuput
(M. cajuputi), Tràm trà (M. alternifolia) và một số loài tràm
khác. Tinh dầu tràm giàu 1,8-cineole có tên chung là Cajeput Oil.
Xây dựng các khảo nghiệm
xuất xứ mới, trên cơ sở kế thừa kết quả các khảo nghiệm xuất xứ trước đây, là
hết sức cần thiết. Trong các năm 2008-2009 ba khảo nghiệm mới đã được xây dựng
tại Ba Vì (Hà Nội), Phú Lộc (Thùa Thiên - Huế) và Thạnh Hóa (Long An) nhằm đánh
giá đầy đủ giá trị của một số xuất xứ Tràm năm gân và Tràm gió cajuput của ta,
chọn ra một số xuất xứ có triển vọng để phát triển vào sản xuất.
Kết quả nghiên cứu cho
thấy, cây tràm trồng khảo nghiệm tại Ba Vì có sinh trưởng chậm hơn rõ rệt so
với trồng tại Phú Lộc và Thạnh Hóa; hàm lượng tinh dầu trong lá và tỷ lệ
1,8-cineole trong tinh dầu tăng lên theo tuổi cây. Ở giai đoạn 2 năm tuổi sinh
trưởng chiều cao có tương quan tương đối chặt giữa các nơi khảo nghiệm, sinh
trưởng đường kính và thể tích thân cây về cơ bản không có tương quan giữa các
nơi khảo nghiệm, hàm lượng tinh dầu và tỷ lệ 1,8-cineole có tương quan chặt và
rất chặt giữa các nơi khảo nghiệm.
Tràm năm gân là loài có
sinh trưởng trung bình đến nhanh, có hàm lượng tinh dầu và thành phần tinh dầu
thay đổi theo các xuất xứ, trong đó có một số xuất xứ vừa có sinh trưởng nhanh,
vừa có hàm lượng tinh dầu cao và tỷ lệ 1,8-cineole lớn hơn 65%. Tràm gió có
xuất xứ Việt Nam
sinh trưởng chậm hoặc rất chậm so với Tràm năm gân và có hàm lượng tinh dầu
thấp (0,63 – 0,99%) và tỷ lệ 1,8-cineole
rất thấp hoặc thấp (14,3 – 60%).
Tại Ba Vì sau 2 năm, các
xuất xứ Q15 (5km West Malam PNG), Q16 (Balimo-Wasu Road PNG) và Q23 (Casino
NSW) có hàm lượng tinh dầu 1,19%, 1.09% và 1,14%. Tỷ lệ 1,8-cineole 69,09% và 71,05%, tỷ lệ limonene 3,49% và 0%;
sau 3 năm có hàm lượng tinh dầu tương ứng là 1,44%, 1,35% và 1,49%; tỷ lệ
1,8-cineole tương ứng 75,07%, 65,48% và 72,44%.
Tại Phú Lộc ở giai đoạn 2
năm tuổi, xuất xứ Q23 có hàm lượng tinh dầu 1,40%, tỷ lệ 1,8-cineole 73,82%, tỷ
lệ limonene 3,03%; xuất xứ Q15 có hàm lượng tinh dầu 1,19%, tỷ lệ 1,8-cineole 67,13%, tỷ lệ limonene 3,35%; xuất xứ Q4 (Ca78
km NE Gympie Qld) có hàm lượng tinh dầu 1,17%, tỷ lệ 1,8-cineole 66,71%, tỷ lệ limonene 3,44% và cũng là một
xuất xứ có triển vọng.
Tại Thạnh Hóa, các xuất xứ
Q8 (Bribie Island Qld), Q15, Q16 và Q23 ở giai đoạn 2 năm tuổi có hàm lượng
tinh dầu 1,58 – 1,75%, tỷ lệ 1,8-cineole 68,2 – 71,3%, tỷ lệ limonene 2,58 –
3,58%. Riêng xuất xứ Q4 có tỷ lệ tinh dầu 1,49%, tỷ lệ 1,8-cineole 66,36%, tỷ
lệ limonene 4,30%.
Q15, Q16 và Q23 là những
xuất xứ có sinh trưởng nhanh, khối lượng lá lớn, hàm lượng và chất lượng tinh
dầu cao. Trong đó, Q23 có triển vọng ở 3 nơi khảo nghiệm; Q15, Q16 có triển
vọng ở Thạnh Hóa và Ba Vì; Q4, Q8 và Q16 có triển vọng tại Thạnh Hóa.