Mục tiêu đề tài nhằm đánh
giá khả năng nâng cao tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống trong ướng cá giò bột
lên cá hương, góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá giò và đáp ứng
nhu cầu con giống của người nuôi.
Cá giò (Rachycentron
canadum) là loài cá biển có giá trị kinh tế cao và được nuôi trồng ở
nhiều nơi trên thế giới. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ sinh học, trong đó
có chế phẩm sinh học trong sản xuất giống và nuôi thủy sản là hướng phát triển
quan trọng trên thế giới và trong nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ứng dụng chế
phẩm sinh học trong ương cá giò chưa có công trình nào được công bố ở Việt Nam và
cũng như trên thế giới.
Nghiên cứu được thực hiện
tại Trại Thực nghiệm Khoa Thủy sản – trường Đại học Cần Thơ từ tháng 3 đến tháng
4 năm 2012. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức, 3
lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức, gồm: (i) chế phẩm A, (ii) chế phẩm B, (iii)
chế phẩm C và (iv) nghiệm thức đối chứng (không sử dụng chế phẩm sinh học). Thí
nghiệm được thực hiện trong các bể compozit có thể tích 500 lít, nước ương có
độ mặn 30 ‰, sục khí liên tục. Cá bột có nguồn từ sinh sản nhân tạo, cá có kích
cỡ ban đầu là 3,3 mm, được bố trí với mật độ ương 10 cá bột/lít. Một số loại
chế phẩm sinh học được sử dụng định kỳ 3 ngày/ lần.
Kết quả nghiên cứu cho
thấy, các yếu tố môi trường nước như pH, nhiệt độ, nitrit, nitrate và TAN trong
bể ương của các nghiệm thức thí nghiệm dao động trong khoảng thích hợp cho cá
giò sinh trưởng và phát triển.
Sau 21 ngày ương, chiều
dài trung bình của cá giờ ở các nghiệm thức đạt từ 20,96 – 22,18 mm, tương ứng
với tốc độ tăng trưởng là 0,88 – 1,03 mm/ngày (hay 8,93 – 9,62%/ngày) và chúng
khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) mặc dù nghiệm thức sử dụng chế
phẩm A và B cho kết quả cao hơn.
Tỷ lệ sống trong ương cá
giò khi sử dụng chế phẩm B và chế phẩm A đạt tốt nhất lần lượt là 9,65% và
7,75%.