Ảnh hưởng của việc sử dụng chế phẩm vi sinh vật cấy, chế phẩm đa enzym để ủ chua đến phân giải dạ cỏ của một số loại thức an thô xanh và phụ phẩm nông nghiệp dùng cho gia súc nhai lại.
Đề tài do nhóm tác giả Lê Văn Hùng, Nguyễn Sức Mạnh, Vũ Chí Cương, Đinh Văn Truyền, Trần Quốc Việt, Lê Văn Huyên và Bùi Thị Thu Tuyền - Bộ mô Dinh dưỡng và thức ăn Chăn nuôi - Viện Chăn nuôi nghiên cứu với mục tiêu khảo sát ảnh hưởng của việc bổ sung các chế phẩm vi sinh vật cấy (TH1) và chế phẩm đa enzyme phân giải xơ (EZ) trong quá trình ủ chua đến tỷ lệ và đặc điểm phân giải dạ cỏ của một số loại thức ăn thô xanh, phụ phẩm nông nghiệp.
Ủ chua là một biện pháp kỹ thuật truyền
thống được sử dụng rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới để chế biến và bảo
quản các loại thức ăn thô xanh, các phụ phẩm của ngành trồng trọt và một số sản
phẩm động vật bằng phương pháp lên men có kiểm soát (Mc Donald, 1991). Tuy
nhiên, do sự khác biệt về bản chất vật liệu ủ (thức ăn xanh, thức ăn củ quả,
thức ăn có nguồn gốc động vật), đặt biệt là kỹ thuật ủ (mức độ yếm khí, thành
phần các chất bổ trợ, điều kiện bảo quản, v.v…) mà chất lượng của các loại thức
ăn ủ chua rất khác nhau. Các chỉ tiêu thông thường như độ pH, sự biến đổi thành
phần hóa học (vật chất khô, chất hữu cơ, protein thô, v.v…) hàm lượng một số
axít hữu cơ (axit lactic, axetic, butyric) chỉ đánh giá được chất lượng của hỗn
hợp ủ trong quá trình chế biến và bảo quản, nhưng không đánh giá được hiệu quả
cuối cùng thông qua các đáp ứng của vật nuôi. Trong những năm gần đây nhiều
công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng, có sự khác biệt rất lớn về tỷ lệ và
đặc điểm phân giải vật chất khô, protein thô và NDF trong dạ cỏ của một số loại
thức ăn ủ chua có cùng nguồn gốc, các chỉ số tương tự nhau về chất lượng lên
men và khả năng bảo quản trong điều kiện yếm khí (Petit, 1992; Yan và ctv,
2004; Silva và ctv, 2008).
Trong những năm vừa qua, Viện Chăn nuôi
phối hợp với Viện Sinh vật và Công nghệ Sinh học Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
đã nghiên cứu sản xuất được chế phẩm vi sinh vật cấy (TH1) và chế phẩm đa
enzyme phân giải xơ (EZ), được dùng như những chất bổ trợ sinh học để ủ chua
thức ăn. Nhằm mục tiêu là khảo sát ảnh
hưởng của việc bổ sung các chế phẩm này trong quá trình ủ chua đến tỷ lệ và đặc
điểm phân giải dạ cỏ của một số loại thức ăn thô xanh, phụ phẩm nông nghiệp,
các thí nghiệm đã được tiến hành trên mười ba mẫu thức ăn bao gồm: rơm lúa
tươi; rơm lúa tươi ủ với chế phẩm vi sinh vật cấy (TH1); rơm lúa tươi ủ với chế
phẩm vi sinh vật cấy với chế phẩm đa enzyme (TH1EZ); rơm lúa tươi ủ với rỉ mật;
cỏ voi tươi; cỏ voi tươi ủ với chế phẩm TH1; cỏ voi tươi ủ chua với chế phẩm
TH1 và chế phẩm đa enzyme (EZ); cỏ voi ủ chua với rỉ mật; thân lá ngô tươi;
thân, lá ngô ủ chua với chế phẩm TH1, thân, lá ngô ủ chua với chế phẩm TH1 và
EZ; thân lá ngô ủ chua với rỉ mật; phụ phẩm dứa tươi; phụ phẩm dứa ủ chua với
chế phẩm TH1 và EZ được sử dụng trong thí nghiệm in sacco trên bò mổ lỗ dò dạ
cỏ nhằm xác định ảnh hưởng của việc sử dụng rỉ mật và các chế phẩm sinh học
(TH1 và EZ) để ủ chua đến tỉ lệ và đạc điểm phân giải dạ cỏ của các loại thức
ăn này. Các mẫu thức ăn tươi (chưa ủ chua) được lấy mẫu ngay từ khi bắt đầu chế
biến (ủ chua) và sấy khô trong tủ sấy, còn các loại thức ăn ủ chua được lấy mẫu
vào ngày thứ 60 sau khi ủ, sau đó được làm đông khô trước khi được nghiền qua
mắt sàng 2 mm. Thí nghiệm in sacco được thực hiện trên 2 bò đực lại Sind mỗ lỗ
dò theo qui trình của Orskov và ctv (1980) với các thời điểm ủ mẫu là 0, 4, 12,
24, 48, 72 và 96 giờ để xác định tỷ lệ và động thái phân giải dạ cỏ của các mẫu
thí nghiệm.
Kết quả cho thấy sử dụng rỉ mật, chế phẩm
TH1 và chế phẩm EZ một cách riêng rẽ để ủ chua không cải thiện được tỷ lệ phân
giải dạ cỏ của vật chất khô và NDF ở rơm lúa tươi, cỏ voi tươi và thân, lá ngô
tươi. Sử dụng rỉ mật và chế phẩm vi sinh vật cấy TH1 như chất bổ trợ duy nhất
để ủ chua không làm tăng tỷ lệ phân giải vật chất khô và NDF của cỏ voi và
thân, lá ngô trong dạ cỏ của bò so với cỏ voi và thân lá ngô tươi. Việc sử dụng
kết hợp cả TH1 và EZ để ủ chua cỏ voi, thân, lá ngô và phụ phẩm dứa đã làm tăng
tỷ lệ phân giải vật chất khô thêm 4,7-10,1%, làm tăng tỷ lệ phân giải NDF thêm 12,7%-20,8%
so với các mẫu không ủ tương ứng.
Từ kết quả nghiên cứu trên nhóm thực hiện
đề tài đã kiến cho sản xuất thử chế phẩm vi sinh vật cấy - TH1 và chế phẩm đa
enzyme dùng trong chế biến thức ăn thô xanh và một số loại phụ phẩm nông nghiệp
làm thức ăn cho gia súc nhai lại.