SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo - Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai

Tỷ lệ có chửa của trâu khi được gây động dục đồng loạt bằng chương trình sử dụng PGF2α GnRH và oestrogen kết hợp cố định thời điểm phối giống nhân tạo

[10/02/2013 11:07]

Nghiên cứu đo nhóm tác giả Đinh Văn Cải, Đậu Văn Hải - Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Thái Khắc Khanh - Trung tâm giống chăn nuôi Nghệ An, Hàn Quốc Vương - Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chăn nuôi miền núi (Viện chăn nuôi) và Trần Lê Thái - Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Kỹ thuật Chăn nuôi (Thanh Hóa) thực hiện nghiên cứu với mục tiêu đánh giá tỷ lệ trâu động dục và có chửa từ các chương trình sử dụng phối hợp GnRH, PGF2α và oestrogen để gây động dục đồng loạt trên trâu nội và kết hợp với cố định thời điểm phối giống nhân tạo.

Trong chăn nuôi nhỏ nông hộ, việc phát hiện trâu cái động dục bằng mắt thường gặp nhiều khó khăn. Ở những vùng thiếu đực giống hoặc do đặc điểm chăn nuôi mà thiếu sự tiếp xúc đầy đủ giữa trâu cái và trâu đực dẫn đến thực trạng trâu cái đẻ thưa. Phối giống nhân tạo cho trâu là một kỹ thuật tiên tiến không chỉ khắc phục được tình trạng thiếu đực giống mà còn để lai tạo trâu nội nước ta với trâu Murrah cho con lai có năng suất và chất lượng cao hơn hẳn trâu nội. Các nghiên cứu theo hướng sử dụng một số hoóc môn sinh dục để gây động dục trên trâu cái tập trung vào khoảng thời gian ngắn, để thuận lợi cho kỹ thuật phối giống nhân tạo, đã được phát triển ngày càng hoàn thiện. Hoóc môn được sử dụng vào mục đích này là progesterone (hoóc môn giới tính duy trì thai) dưới dạng dụng cụ đặt vào âm đạo như CIDR và PRID hay PGF2α dưới dạng tiêm như chế phẩm Lutalyse, Cloprostenol. Các nghiên cứu của Yendraliza và ctv (2011) trên trâu Indonesia; Gupta và ctv (2008) trên trâu Ấn Độ; Gianluca và ctv (2003) trên trâu của Ý; Guang và ctv (2009) trên trâu Trung Quốc đã sử dụng kết hợp PGF2α và GnRH (Ovsynch program) đã cho kết quả động dục và Đậu thai của trâu cao hơn khi sử dụng đơn lẻ một loại hoóc môn. Vì vậy, các nghiên cứu đã hướng sự chú ý đến việc sử dụng kết hợp các loại hoóc môn như GnRH, FSH, LH, hCG, prostaglandin, progesterone và estradiol. Trong nước, có một số nghiên cứu sử dụng hoóc môn để điều trị các rối loạn sinh sản trên bò sữa (Chung Anh Dũng và cs năm 2007; Trần Thị Loan và cs, 2012) và trên trâu (Mai Văn Sánh và cs, 2005). Năm 2011 nhóm tác giả Đinh Văn Cải và cộng sự đã công bố kết quả sử dụng progesterone (dụng cụ CIDR) kết hợp với PGF2α và GnRH động dục đồng loạt trên trâu đã cho tỷ lệ trâu cái động dục đạt 69,17% và thời gian xuất hiện động dục tập trung vào  40 giờ sau xử lý. Tỷ lệ có chửa bằng phối giống nhân tạo sau lần phối giống đầu đạt 48,91% và sau hai lần phối đạt 64,13%.

 Trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2011, nhóm tác giả đã tiến hành chọn lựa thí nghiệm trên tổng số 103 trâu cái chưa có thai được chọn trong 4 tỉnh Thái Nguyên (24 con), Thanh Hóa (24 con), Nghệ An (24 con) và Bình Phước (31 con) đã được chọn vào thí nghiệm. Trâu cái trong mỗi nhóm thí nghiệm được phối giống nhân tạo một cách ngẫu nhiên tự một trong 3 chương trình hoóc môn khác nhau. Tinh phối là tinh cọng rạ 0,25 ml nhập từ Ấn Độ. Nhóm 1 (n=35), GnRH (ngày 0), PGF2α (ngày 7), GnRH (ngày 9). Ngày 10 phối bắt buộc cho tất cả trâu (Fixel – time Artificial Insemination, TAI). Nhóm 2 (n=35), GnRH (ngày 0), PGF2α (ngày 7), oestrogen (ngày 8). Ngày 10 phối bắt buộc cho tất cả trâu (TAI). Nhóm 3 (n=33), CIRD (ngày 0), GnRH (ngày 0), ngày 7 rút CIDR và tiêm PGF2α. Theo dõi lên giống và phối cho trâu động dục.

 Kết quả thí nghiệm cho thấy trâu cái nội đáp ứng tốt với hoóc môn gây động dục đồng loạt, tỷ lệ trâu động dục đạt 73,79%, thời gian xuất hiện động dục sau xử lí 38,8 giờ. Tỷ lệ trâu có chửa qua 2 chu kì phối 68,57% trên số trâu xử lí. Chương trình xử lí kết hợp hoóc môn GnRH+PGF2α+oestrogen và cố định thời điểm phối 24 giờ sau khi xử lí (TAI) cho kết quả tốt hơn về tỷ lệ trâu có chửa (68,57%), đơn giản về kỹ thuật, rất phù hợp cho chương trình phối giống nhân tạo trâu tập trung vào thời điểm trong năm.

Tạp chí NN&PTNT số 21/2012
Xem thêm
Bản quyền @ 2017 thuộc về Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ
Địa chỉ: Số 02, Lý Thường kiệt, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại: 0292.3820674, Fax: 0292.3821471; Email: sokhcn@cantho.gov.vn
Trưởng Ban biên tập: Ông Trần Đông Phương An - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ