Nghiên cứu chỉ thị Microsatellte lựa chọn cá rô phi bố mẹ lai xa tạo cá đơn tính đực
Đề tài do nhóm tác giả Nguyễn Hữu Ninh và Lưu thị Hà Giang - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 triển khai thực hiện với mục tiêu đánh giá sáu chỉ thị microsatellite về khả năng lựa chọn cá rô phi bố mẹ lai xa sản xuất cá đơn tính đực.
Một trong những khó khăn lớn
đối với nuôi cá rô phi là không thể quản lý đàn cá nuôi do cá tự sinh sản trong
ao. Cá thể có thể sinh sản ở 5-6 tháng tuổi dẫn đến không thể khống chế số
lượng cá trong ao và làm giảm khả năng sinh trưởng của cá nuôi. Để giải quyết
vấn đề trên cần phải tiến hành tạo cá rô phi đơn tính. Có một số công nghệ sản
xuất cá rô phi đơn tính như lựa chọn phân biệt bằng mắt thường khi cá đã lớn,
phương pháp khác tốn ít nhân công hơn là sử dụng hoóc môn chuyển giới tính cá ở
giai đoạn còn nhỏ và phương pháp thứ ba được tiến hành dựa trên việc lai khác
loài. Nghiên cứu đã thành công trong việc lựa chọn đặc điểm hình thài của cá bố
mẹ lai xa cho tỷ lệ giới tính đực ở thế hệ con >95% (Phạm Anh Tuấn và đồng
tác giả, 2008), tuy nhiên tỷ lệ lựa chọn và phân ly đặc điểm hình thái ở thế hệ
con chưa được nghiên cứu. Trên thế giới cũng đã có nhiều nghiên cứu về chỉ thị
phân tử liên kết với giới tính và chỉ thị phân tử liên kết với màu sắc cá rô
phi đơn tính đực bằng phương pháp lai xa.
Lee và đồng tác giả (2004)
đã nghiên cứu các chỉ thị phân tử liên kết với giới tính ở cá rô phi xanh đực
và cái, kết quả cho thấy nhiều chỉ thị liên kết chặt với giới tính thuộc nhóm
liên kết LG1 và LG3. Các nghiên cứu gần đây cho thấy gien Sox2 và Sox14 nằm
trên cùng một nhiễm sắc thể và thuộc nhóm liên kết LG3. Đây là những gien chủ
yếu quy định giới tính ở cá rô phi. Tuy nhiên, Cnaani và đồng tác giả (2007) đã
giải trình tự các gien Sox2 và Sox14 trên 4 loại cá rô phi khác nhau và xác
định được chúng thuộc nhóm liên kết LG17, LG23 và chúng nằm trên các nhiễm sắc
thể khác nhau. Nghiên cứu tiếp của tác giả cho thấy gien Sox14 chỉ liên kết với
tình trạng sinh trưởng, stress (ứng suất), tỷ lệ sống của phôi và có rất ít ảnh
hưởng đến việc quy định giới tính của cá rô phi. Cnaani và Kocher (2008) xác
định cơ chế di truyền điều khiển giới tính của các loài cá rô phi thuộc giống
Oreochromis là rất khác nhau. Các chỉ thị CLCN5, GM139, GM271 và GM354 thuộc
nhóm liên kết LG3 đã được sử dụng để nghiên cứu giới tính của loài cá có kiểu
di truyền WZ/ZZ, kết quả quan sát được sự lặp lại của 2 chỉ thị trên nhiễm sắc
thể giới tính. Kết quả nghiên cứu đề xuất khả năng về quá trình biến đổi rất
nhanh của những gien qui định giới tính đối với những loài có quan hệ gần gũi.
Angienda và đồng tác giả (2010) nghiên cứu cơ chế di truyền và nhiệt độ quy
định giới tính của cá rô phi O. niloticus
sử dụng ba chỉ thị microsatellite (vi vệ tinh) Abur36, Abur100 và UNH846.
Trong đó, Abur36 cho phép xác định 95% giới tính cá rô phi và đề xuất khả năng
đây sẽ là chỉ thị trên gien liên kết với giới tính. Chỉ thị này có thể được sử
dụng trợ giúp chọn lọc kiểu gien của cá bố mẹ sản xuất cá đơn tính đực phục vụ
sản xuất.
Vì vậy, nghiên cứu đã triển khai ứng dụng ba
công thức lai xa giữa các dòng cá rô phi, mỗi công thức gồm 25 gia đình ♀ 0. niloticus Israel Í
♂0. aureus Israel, ♀ 0. niloticus Đài LoanÍ
♂0. aureus Israel, ♀ 0. niloticus Đài LoanÍ
♂0. aureus Trung Quốc cho tỷ
lệ giới tính đực dao động tương ứng là 72-100%, 74-100% và 43-100%.
Sáu chỉ thị microsatellite được chọn lọc để
phận tích trên nhóm cá bố mẹ cho tỷ lệ giới tính đực ở thế hệ con ≥ 95% và < 95%, kết quả cho
thấy các chỉ thị UNH104, UNH995 và GM354 có các alen đặc hiệu liên quan đến
giới tính (P<0,001). Các alen đặc hiệu có thể dùng để lựa chọn cá bố mẹ lai
xa phục vụ sản xuất cá đơn tính đực > 95%. Không có sự khác biệt các alen
đặc hiệu riêng của cá bố với cá mẹ. Tuy nhiên, các chỉ thị và alen liên kết với
giới tính cấn phải được kiểm tra sự di truyền và liên kết ở thế hệ sau.