Nghiên cứu dịch tể ấu trùng sán lá truyền lây trên cá chép bột, chép hương (Cyprinus carpio).
Đề tài do Kim Văn Vạn và Nguyễn Thị Lan – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội thực hiện với mục tiêu nghiên cứu dịch tể ấu trùng sán lá truyền lây trên cá chép bột, chép hương (Cyprinus carpio).
Cá chép là một đối tượng cá nuôi nước ngọt được
nhiều người ưa chuộng do cá có đặt tính là chất lượng thịt thơm ngon, ngoại
hình đẹp, thích nghi rộng với nhiều loại hình thủy vực. Tuy nhiên, đặc tính
sinh học của cá chép cũng tiềm ẩn mối nguy mất an toàn vệ sinh thực phẩm liên
quan đến sự nhiễm ấu trùng sán lá truyền lây mà cá là loài vật chủ trung gian
truyền bệnh sán lá. Sán có vòng đời phức tạp, ở giai đoạn trưởng thành sán
thường ký sinh ở ruột, ống mật, gan của người, thú và chim ăn cá. Ở ký chủ cuối
cùng sán trưởng thành đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường nước phát
triển thành ấu trùng, ấu trùng tìm đến ốc Melanoides tuberculata để ký sinh. Ốc
được coi là vật chủ trung gian thứ nhất, sau đó ấu trùng rời ốc (cercaria) tìm
đến ký sinh ở mang, cơ, vây của nhiều loài cá; đặt biệt ở giai đoạn cá hương
gây bệnh “ kênh mang” và được gọi là vật chủ trung gian thứ 2 do ấu trùng
metacercaria gây ra (Kim Văn Vạn & cs., 2013).
Ở giai đoạn nhỏ cá chép thường ăn nổi và ăn
động vật phù du là chính; sau khi lớn lên chúng chuyển sang sống dưới đáy và
phổ thức ăn chính là động vật đáy; khi ương nuôi cá chép thường bị nhiễm ấu
trùng sán lá, làm ảnh hưởng rất lớn đến việc hô hấp, sinh trưởng và thậm chí
còn gây chết (Arthur J. R. và B. Q. Te, 2006). Từ năm 2004 đến nay, dự án ký
sinh trùng truyền lây qua cá (FIBOZOPA) đã nghiên cứu ấu trùng sán trên một số
loại cá nuôi ở Nam Định, Nghệ An, Khánh Hòa, vùng đồng bằng sông Cửu Long…tuy
nhiên ở giai đoạn cá chép bột, cá chép hương chưa tiến hành nghiên cứu ở Việt
Nam.
Để điều tra tình hình dịch tễ ấu trùng sán
lá truyền lây trên cá chép bột, chép hương
(Cyprinus carpio) đề tài đã tiến hành thu 1230 mẫu cá bột từ 41 ao cá đẻ
bằng 2 hình thức: đẻ nhân tạo và bán nhân tạo; 3600 mẫu cá chép hương từ 30 ao
ương giống trong các tuần tuổi từ 1-4 để kiểm tra ấu trùng sán (ATS) bằng
phương pháp ép mô.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự
nhiễm ATS lá trên cá bột và cá chép hương dưới 2 tuần tuổi. Từ tuần tuổi thứ
3-4 tỷ lệ và cường độ nhiễm ATS tăng theo thợi gian. Các loài ATS tìm được gồm
có 3 loài sán lá ruột nhỏ: Centrocestus formosanus, Haplorchis pumilio,
H.taichui và một loài sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis; trong đó ATS lá
C.formosanus chỉ thấy ký sinh trên mang gây kênh nắp mang và là loài nhiễm với
tỷ lệ và cường độ cao nhất trên cá chép hương.