Khảo sát tính chất hóa học của bùn đáy ao nuôi tôm sú tại huyện Duyên Hải và Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh
Nuôi tôm thâm canh góp phần tác động đến môi trường không nhỏ trong hầu hết các hệ thống sản xuất tôm. Đề tại “Khảo sát tính chất hóa học của bùn đáy ao nuôi tôm sú tại huyện Duyên Hải và Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh” do nhóm tác giả Lê Tấn Lợi và Ngô Ngọc Hưng (Đại học Cần Thơ) đồng thực hiện nhằm xác định hàm lượng dưỡng chất có bùn đáy ao nuôi tôm sú và đánh giá tính khả thi của việc sử dụng bùn đáy ao để chế tạo phân bón hữu cơ.
Ảnh minh họa
Hiện nay, 90% trang trại
nuôi tôm ở Việt Nam
tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều nghiên cứu đã lưu ý các trại nuôi
tôm ở Việt Nam có thể dẫn đến ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng vì dư lượng thức
ăn sẽ đưa đến hàm lượng BOD, nito (N) và phốt pho (P) cao trong nước lại được
xả trực tiếp xuống kênh rạch và các con sông gây ra sự thiếu oxy và phú dưỡng
hóa.
Nhóm tác giả tiến hành
khảo sát và thu mẫu ở 3 mô hình nuôi tôm sú: nuôi tôm công nghiệp (Cầu Ngang); nuôi
tôm quảng canh (Duyên Hải); và nuôi tôm quảng canh cải tiến (Duyên Hải). Mỗi mô
hình nuôi tôm lấy 5 mẫu tại 5 ao nuôi tôm khác nhau, mẫu được thu vào đầu vụ
(tháng 2/2010), giữa vụ (tháng 5/2010) và cuối vụ (tháng 7/2010) nuôi tôm của
các hộ dân.
Kết quả phân tích mẫu cho
thấy rằng, bùn đáy ao ở các mô hình nuôi tôm sú ở Duyên Hải và Cầu Ngang có hàm
lượng dưỡng chất như sau: Các bon hữu cơ (1,29 – 2,62% C), lân tổng số (0,07 –
0,11% P2O5), đạm tổng số (0,04 – 0,12% N), kali hữu hiệu
(0,44 – 0,74% K2O). Trong đó, bùn ao của nuôi tôm công nghiệp có hàm
lượng C và N thấp nhất so với bùn ao của các mô hình khác. Dựa vào tiêu chuẩn
sản xuất phân hữu cơ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hàm lượng
dưỡng chất của bùn đáy ao nuôi tôm sú được đánh giá là rất thấp để có thể sản
xuất phân hữu cơ. Vì vậy, tính khả thi của việc sử dụng vật liệu này là không có.
Ngoài ra, việc loại trừ lượng muối chứa trong vật liệu này cũng là vấn đề khó
thực hiện trong quá trình chế tạo phân hữu cơ.